Ngày 01 tháng 11
CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI
1. Nguồn gốc
Theo sách vở ghi lại, thì thánh Odilo (962- 1048) là viện phụ đan viện Cluny. Đan viện này thời đó nằm trong phần đất của đế quốc Germany.
Ngài là người thánh đức, thường cầu nguyện, hy sinh , và dâng lễ cầu cho các linh hồn đã qua đời. Truyện kể rằng:
Một hôm, một đan sĩ Dòng ngài đi viếng Đất thánh Giêrusalem. Trên đường trở về Đan viện Cluny. Tầu chở đan sĩ bị bão đánh giạt vào một hòn đảo. Tại đó, đan sĩ gặp một ẩn sĩ và được ẩn sĩ cho biết:
“Trên đảo này có nhiều hang lửa, trong hang có nhiều người bị hành hạ, đánh đập. Tôi thường nghe các tên quỷ phàn nàn với nhau về Viện phụ Odilo và các đan sĩ Dòng của ngài rằng: ngày nào họ cũng giải thoát một số linh hồn ra khỏi hang lửa đó. Vì thế, xin thầy về nói với cha Odilo và các anh em trong Dòng cứ tiếp tục cứu giúp các linh hồn đau khổ. Đó cũng là niềm vui cho các thánh trên Thiên đàng và là sự đau khổ cho quỷ dữ dưới Hỏa ngục”. (Thánh Odilo)
Sau khi nghe biết sự việc này, cha Odilo đã lập lễ Cầu hồn vào ngày 2 tháng 11, trước hết cử hành trong đan viện Cluny của ngài vào năm 998 (có sách nói năm 1030). Về sau lễ cầu hồn đã được truyền sang nước Pháp, tới giữa thế kỷ 10, Đức Giáo hoàng Gioan 14 đã lập lễ Cầu hồn trong Giáo hội Rôma. (Catholic Encyclopedia, St. Odilo).
-Từ thời đó, nhiều nơi đã có thói quen cầu nguyện tuần chín ngày cho các linh hồn, họ đi thăm viếng, sửa mồ mả cha ông. Vào buổi chiều lễ Các Thánh, có những người đi từng nhà xin quà cho các linh hồn, họ hát những bài ca cổ truyền, cổ động cầu cho các linh hồn mau ra khỏi Luyện ngục.
– Tại nước Hungary, người ta gọi ngày 2/11 là “Ngày người chết”. Ngày đó, người ta có thói quen tụ họp các trẻ mồ côi tới gia đình họ rồi cho chúng ăn, cho quần áo, cho quà bánh, đồ chơi.
– Tại miền quê nước Poland, người ta kể: nửa đêm lễ Cầu hồn, người ta thắp sáng nhà thờ giáo xứ, để các linh hồn trong xứ đã qua đời về quanh bàn thờ cầu ơn giải thoát khỏi luyện ngục. Người ta nói là, sau đó linh hồn trở lại thăm lại nhà mình, thăm nơi mình quen thuộc, làm việc mình đã làm khi còn sống. Và để đón tiếp những linh hồn này, người ta để cửa sổ mở suốt đêm mùng 2.
-Tại Việt nam, nhất là miền Bắc, trước Công đồng Vaticanô 2 (1962-65) người ta thường sửa mồ mả cha ông vào dịp Tết Nguyên đán.
Còn lễ Cầu hồn, người ta đi viếng các nhà thờ chung quanh suốt ngày lễ Các Thánh để lãnh ân xá chỉ cho các linh hồn đã qua đời.
Cảnh người lớn trẻ em tấp nập ra vào nhà thờ rất vui vẻ. Người ta dự lễ và xin lễ rất nhiều để cầu cho Tổ tiên, Ông bà, Cha mẹ sớm về hưởng phước Thiên đàng.
* Thương nhớ người quá cố, nhất là cha mẹ, anh chị em trong gia đình là chuyện tự nhiên của con người. Ao ước cho người thân mình được “nghỉ yên muôn đời trong nơi mát mẻ hạnh phúc” cũng là tâm lý thông thường. Do đó việc cầu cho người thân đã qua đời là việc cần thiết, vừa cho linh hồn người chết được cứu thoát khỏi Luyện ngục, vừa cho người sống được tỏ lòng hiếu thảo đền ơn.
* Ngày 10 tháng 8 năm 1915, Trong một Tông hiến, Tòa thánh cho các linh mục được dâng 3 lễ vào ngày lễ Cầu hồn: 1 cầu như ý người xin (được lấy bổng lễ), 1 cầu theo ý ĐTC (không bổng) và 1 cầu cho các linh hồn (không bổng).
* Giáo hội cũng xác định dành trọn tháng 11 để cầu cho các linh hồn Luyện ngục.
* Ngày 1 tháng 11 năm 1967, ĐTC Phaolô 6, trong Tông huấn Ân xá đã ban một đại xá với điều kiện thường lệ (xưng tội, rước lễ, cầu theo ý ĐGH) cho những ai “viếng nhà thờ vào Chúa Nhật trước hoặc sau, hoặc chính lễ Các Thánh (số 67), và ơn đại xá cho những ai viếng nghĩa địa trong 8 ngày đầu tháng 11 để cầu cho các linh hồn (số 13).
2. Ghi nhận lịch sư – phụng vụ
Việc tưởng nhớ các tín hữu đã qua đời đã có từ thế kỷ IX và là sự tiếp nối truyền thống các tu viện dành một ngày cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, một truyền thống đã có từ thế kỷ VII. Tuy nhiên, phải đến thời thánh Odilon đan viện phụ Cluny (khoảng 879-942), lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời mới được ấn định vào ngày 2 tháng 11.
Thánh Augustin từng ca ngợi tập tục cầu nguyện cho người đã qua đời, kể cả không phải ngày giỗ của họ, để không một ai bị lãng quên. Thực ra, hằng ngày Hội Thánh đều nhắc tới việc tưởng nhớ các tín hữu đã qua đời và “mọi người quá cố mà chỉ một mình Chúa biết lòng tin của họ” (Kinh Nguyện Thánh Thể IV). Lễ nhớ này được phổ biến ở Rôma vào thế kỷ XIV, và đến thế kỷ XV, các tu sĩ Đaminh ở Valentia đã thiết lập truyền thống cử hành 3 thánh lễ —giống như ngày lễ Giáng Sinh— để cầu cho các tín hữu đã qua đời. Năm 1915, trong Thế Chiến I, năng quyền này đuợc Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XV mở rộng cho toàn thể Hội Thánh, và nghi thức thánh lễ có thêm một bản Kinh Tiền Tụng riêng lấy từ Sách Lễ Paris năm 1738. Năm 1969, các bản văn phụng vụ được canh tân để diễn tả rõ ý nghĩa Vượt Qua của sự chết. Vì thế người ta đã bỏ ca khúc Dies Irae (Ngày Thịnh Nộ).
3. Thông điệp và tính thời sự
Hiến chế Phụng vụ của Vaticanô II đòi hỏi rằng “nghi thức an táng phải diễn tả rõ ý nghĩa Vượt qua của sự chết Kitô giáo” (PV 81). Vì thế các bản văn Thánh lễ đã được canh tân để đáp ứng các chỉ thị này : bốn Kinh Tiền Tụng mới đã được thêm vào với Kinh Tiền Tụng hiện có. Các Kinh Tiền Tụng này khai triển các chủ đề sau : – 1. Sự đau buồn và hi vọng trước cái chết – 2. Chúa Kitô chết để chúng ta được sống – 3. Đức Kitô, sự sống và sống lại của chúng ta – 4. Thiên Chúa, Đấng dựng nên chúng ta, sẽ làm cho chúng ta sống lại – 5. Được Chúa Kitô cứu chuộc, chúng ta sẽ sống lại với Người.
a. Chúng ta đọc trong Kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người sẽ sống lại”, và Sách Giáo Lý giải thích tín điều này như sau : “‘Xác sống lại’ có nghĩa là sau khi chết, không chỉ có linh hồn bất tử sẽ sống, mà cả thân xác chúng ta cũng sẽ sống lại.” (số 989). Niềm tin này được khẳng định rõ ràng trong các lời nguyện thánh lễ, diễn tả mối tương quan giữa “sự phục sinh thân xác” với sự phục sinh của Chúa Kitô : “Lạy Chúa, xin gia tăng lòng tin của chúng con vào Con Chúa, Đấng đã sống lại từ cõi chết, để chúng con tràn trề hy vọng vào sự sống lại của tất cả anh em chúng con đã qua đời.” (Lời Nguyện của Mẫu 1).
b. Công đồng Vaticanô II tuyên bố trong Hiến chế Lumen Gentium rằng : “Ngay từ những thời kỳ đầu của Kitô giáo, Hội Thánh trong các phần tử còn lữ hành ở trần gian đã có lòng sùng mộ sâu xa đối với việc tưởng nhớ những tín hữu đã qua đời, bằng cách dâng cho họ các việc độ vong của Hội Thánh, vì việc cầu nguyện cho những người đã qua đời để họ được giải thoát khỏi tội lỗi của họ, là một ý tưởng đạo đức và thánh thiện.” (2 Mcb 12, 45). Vì vậy, trong Lời Nguyện trên lễ vật, chúng ta cầu xin Chúa “cho mọi người đã qua đời được đón nhận vào Nước Chúa” (Mẫu 1) và xin cho họ được xóa sạch mọi tội lỗi “nhờ máu Chúa Kitô hiến dâng” trong Thánh Thể (Mẫu 2).
c. Tính chất Vượt Qua của mầu nhiệm sự chết của các tín hữu đã qua đời được sáng tỏ trong Lời Nguyện sau hiệp lễ, khi chúng ta cầu xin Chúa mở cửa cho các anh em quá cố của chúng ta được vào ngôi nhà bình an và ánh sáng của Người “vì chúng ta dâng mầu nhiệm Vượt Qua chính là để cầu cho họ” (Mẫu 1). Cũng thế, Thánh thi Giờ Kinh Sách gợi lên ý tưởng “Đức Kitô sống lại từ cõi chết / Quả đầu mùa của những người đã an nghỉ”.
d. Thánh Ambroise, trong bài giảng ngày giỗ em trai ngài là Satire, cũng nhấn mạnh ý nghĩa Vượt Qua này –bước từ sự chết sang sự sống– trong bài đọc Giờ Kinh Sách : “Đức Ki-tô là gì? Người chính là cái chết của thân xác và là thần khí ban sự sống. Chúng ta cũng chết với Người để sống với Người… Người không thể cứu chúng ta bằng cách nào tốt hơn là cái chết của Người. Vì thế cái chết của Người ban sự sống cho tất cả chúng ta.” Câu Xướng đáp tiếp sau bài đọc trích thư thánh Phaolô : “Đức Kitô đã chết và sống lại, là để làm Chúa kẻ chết và người sống.” (Rm 14, 9).
Đa Minh Thái Bình, tổng hợp
Nguồn tin: https://www.cddunglac.com/
https://www.tonggiaophanhanoi.org/
Copyright © 2021 Bản quyền thuộc về HỘI DÒNG NỮ ĐA MINH THÁI BÌNH
Đang online: 56 | Tổng lượt truy cập: 3,035,733