Suy niệm Tin mừng Chúa Nhật - Lễ Lá năm B (Mc 14, 1-14,47)

  • 23/03/2024 19:52
  • “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”.

    NGHI THỨC TƯỞNG NIỆM CHÚA VÀO GIÊRUSALEM

    (1) Linh mục chào giáo dân như thường lệ; nói ít lời với giáo dân hoặc:

    Anh chị em thân mến, chúng ta tụ họp nơi đây, để cùng toàn thể Giáo Hội khai mạc tuần thánh tưởng niệm mầu nhiệm Vượt Qua, tức là cuộc thương khó và Phục Sinh của Ðức Kitô. Ðể chuẩn bị Tuần Thánh, trong suốt mùa chay, chúng ta đã cầu nguyện, thống hối, chia sẻ tình thương và cơm áo cho nhau.

    Chúa nhật lễ lá hôm nay là ngày kỷ niệm Ðấng Cứu Thế vào thành thánh Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại cho loài người ơn cứu độ, chúng ta hãy đem cả niềm tin mà hăng hái bước theo Người. Xin Người ban ơn để chúng ta thông phần đau khổ Người đã chịu trên thập Giá, hầu được chia sẻ vinh quang Phục Sinh và sự sống của Người.

    (2) Linh mục đọc một trong hai lời nguyện sau đây:

    Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin thánh X hiến những cành lá này, để chúng con cầm mà hoan nghênh Ðức Giêsu là Vua chúng con. Xin ban cho mọi người chúng con đây là tín hữu Chúa được theo Người vào thành thánh Giêrusalem vĩnh cửu. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.

    Hoặc:

    Lạy Chúa, xin gia tăng lòng tin cho chúng con là những kẻ cậy trông vào Chúa. giờ đây chúng con cầm những cành lá này, nghênh đón Ðức Kitô khải hoàn vinh hiển. Xin Chúa thương nhận lời và ban cho chúng con được sống kết hợp với Người như cành liền cây hầu sinh hoa kết quả. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.

    (3) Linh mục thinh lặng rảy nước thánh trên lá. phát lá.

     

    Công bố Tin Mừng:

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Máccô.

    “Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa.”

    Khi Ðức Giêsu và các môn đệ đi gần tới thành Giêrusalem, lúc sắp vào làng Bếtphaghê và Bêtania, bên triền núi cây Ôliu, Người sai hai môn đệ và bảo: “Các anh đi vào làng trước mặt kia. Tới nơi, sẽ thấy một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và dắt nó về đây. Nếu có ai bảo: “Tại sao các anh làm như vậy?” thì cứ nói là: “Thầy có việc cần dùng, rồi sẽ trả về ngay”. Hai môn đệ ấy ra đi và thấy một con lừa con cột ngoài cửa ngõ, ngay mặt đường. Các ông liền cởi dây lừa ra. Mấy người đứng đó hỏi: “các ông cởi lừa người ta ra làm gì vậy?” Hai ông trả lời như Ðức Giêsu đã dặn. Và họ để cho đi. Hai ông dắt con lừa về cho Ðức Giê-su, trải áo choàng của mình lên lưng nó, và Ðức Giêsu cỡi lên. Nhiều người trải áo xuống mặt đường, môt số khác lại chặt cành chặt lá ngoài đồng rải lên lối đi. Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: “Hoan hô! Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Ðavít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô Chúa trên các tầng trời!”

    Ðó là lời Chúa.

     

    (4) Sau Tin Mừng, tùy nghi giảng vắn tắt. Ðể bắt đầu cuộc rước chủ tế kêu gọi:

    Anh chị em thân mến, chúng ta hãy noi gương dân thành Giê-ru-sa-lem mà hoan hỷ lên đường nghênh đón Ðức Ki-tô.

    (5) Thứ tự: người cầm hương; thánh giá có gắn lá; Linh mục và giúp lễ; giáo dân tay cầm lá.

    Hình thức thứ hai: Nhập lễ trọng thể

    Giáo dân cầm cành lá trong tay tụ họp ngoài hay trong chính nhà thờ. Chủ tế, giúp lễ và đại diện giáo dân đến một nơi đã dọn sẵn ngoài cung thánh. (14) Ðang khi ấy hát Hoan hô Thái Tử… Rồi làm phép lá, công bố Tin Mừng; sau đó tiến lên cung thánh cách trọng thể, trong khi ấy hát “xưa Chúa vào thành thánh…”

    Tới bàn thờ, chủ tế tuỳ nghi xông hương. Ðọc lời nguyện nhập lễ, tiếp tục như thường.

    Hình thức thứ ba: Nhập lễ đơn giản

    Như thường lệ.

     

    THÁNH LỄ

    1. Bài đọc 1:  Is 50, 4-7

    “Tôi đã không giấu mặt mũi tránh những lời nhạo cười, nhưng tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn”.

    (Bài ca thứ ba về Người Tôi Tớ Chúa)

    Trích sách Tiên tri Isaia.

    Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Mỗi sáng Người đánh thức tôi, Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn. Thiên Chúa đã mở tai tôi, mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn.

    Ðó là lời Chúa.

     

    2.  Đáp ca:  Tv 21, 8-9. 17-18a. 19-20. 23-24

    Ðáp: Ôi Thiên Chúa! Ôi Thiên Chúa! sao Chúa đã bỏ con? 

    Xướng:

    1) Bao người thấy con đều mỉa mai con, họ bĩu môi, họ lắc đầu: “Hắn tin cậy Chúa, xin Ngài cứu hắn, xin Ngài giải gỡ hắn, nếu Ngài yêu thương”.

    2) Ðứng quanh con là đàn ưng khuyển, một lũ côn đồ bao bọc lấy con. Chân tay con chúng đều chọc thủng, con có thể đếm được mọi đốt xương con.

    3) Phần chúng thì nhìn xem con và vui vẻ, đem y phục của con chia sẻ với nhau, còn tấm áo dài, thì chúng rút thăm… Phần Ngài, lạy Chúa, xin chớ đứng xa con, ôi Ðấng phù trợ con, xin kíp ra tay nâng đỡ.

    4) Con sẽ tường thuật danh Chúa cho các anh em, giữa nơi công hội, con sẽ ngợi khen Người. “Chư quân là người tôn sợ Chúa, xin hãy ca khen Chúa, toàn thể miêu duệ nhà Gia-cóp, hãy chúc tụng Người, hãy tôn sợ Người, hết thảy dòng giống Ítraen!”

     

    3. Bài đọc 2:  Pl 2, 6-11

    “Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người”.

    Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philípphê.

    Chúa Giêsu Kitô, tuy là {thân phận} Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang.

    Ðó là lời Chúa.

     

    4.  Bài thương khó:  Mc 14, 1 – 15. 47 (bài dài)

    “Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.

    C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu

     

    C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Marcô.

    Hai ngày trước Lễ Vượt Qua và Tuần Lễ ăn bánh không men, các thượng tế và luật sĩ tìm mưu bắt giết Chúa Giêsu. Họ bảo nhau rằng:

    S. “Ðừng làm trong ngày lễ, kẻo sinh náo động trong dân”.

    C. Khi Chúa đang dùng cơm ở Bêtania trong nhà ông Simon tật phong, thì có một người phụ nữ mang đến một bình ngọc đựng dầu thơm rất quý giá. Ðập vỡ bình, bà đổ dầu thơm trên đầu Người. Có mấy người khó chịu nghĩ thầm rằng: Làm gì mà phí dầu thơm như vậy? Dầu này có thể bán được hơn ba trăm đồng bạc để bố thí cho kẻ nghèo khó. Và họ nặng lời với bà đó. Nhưng Chúa Giêsu bảo:

    J. “Hãy để mặc bà, sao các ông lại làm cực lòng bà? Bà vừa làm cho Ta một việc rất tốt. Vì bao giờ các ông cũng có những kẻ nghèo ở bên mình, và các ông có thể làm phúc cho họ lúc nào tuỳ ý, nhưng Ta, các ông không có Ta ở luôn với đâu. Làm được gì thì bà đã làm, bà đã xức dầu thơm có ý tẩm liệm xác Ta trước. Ta bảo thật các ông: Trong khắp thế giới, Phúc âm này rao giảng đến đâu thì người ta cũng sẽ thuật lại việc bà mới làm để nhớ bà”.

    C. Khi ấy, Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai, đến tìm các thượng tế để tình nguyện nộp Người cho họ. Nghe vậy, họ mừng rỡ và họ liền hứa cho nó tiền. Và nó tìm dịp tiện nộp Người.

    Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men là ngày giết chiên mừng Lễ Vượt Qua, các môn đệ thưa Người:

    S. “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua tại đâu?”

    C. Người liền sai hai môn đệ đi và dặn rằng:

    J. “Các con hãy vào thành, và nếu gặp một người mang vò nước thì hãy đi theo người đó. Hễ người ấy vào nhà nào thì các con hãy nói với chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: Căn phòng Ta sẽ ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu? Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở đó”.

    C. Hai môn đệ ra đi vào thành và thấy mọi sự như Người đã bảo, và hai ông dọn Lễ Vượt Qua.

    Chiều đến, Người cùng Mười Hai môn đệ tới. Và khi mọi người đang ngồi ăn, thì Chúa Giêsu nói:

    J. “Ta bảo thật các con, một trong các con đang ăn cùng Ta, sẽ nộp Ta”.

    C. Các ông đều buồn rầu và lần lượt từng người thưa Ngài:

    S. “Thưa Thầy, có phải con không?”

    C. Người đáp:

    J. “Là một trong mười hai, kẻ cùng chấm một đĩa với Thầy. Con Người phải ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người. Thà nó đừng sinh ra thì hơn”.

    C. Ðang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán:

    J. “Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta”.

    C. Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông:

    J. “Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người. Ta bảo thật các con: Ta sẽ chẳng còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày Ta sẽ uống rượu mới trong nước Thiên Chúa”.

    C. Sau khi hát Thánh Vịnh, Thầy trò đi lên núi Cây Dầu. Chúa Giêsu bảo các ông:

    J. “Ðêm nay, tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy, vì có lời chép rằng: ta sẽ đánh chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con”.

    C. Phêrô thưa Người:

    S. “Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, nhưng con thì không”.

    C. Chúa Giêsu bảo ông:

    J. “Thầy bảo thật con: Hôm nay, nội đêm nay, trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Thầy ba lần”.

    C. Nhưng Phêrô càng lên giọng cương quyết hơn mà rằng:

    S. “Không, dầu phải chết với Thầy, con cũng sẽ không chối Thầy”.

    C. Và tất cả đều nói như vậy.

    Ði đến một vườn kia tên là Ghếtsêmani, Người bảo các môn đệ:

    J. “Các con hãy ngồi lại đây trong khi Thầy đi cầu nguyện”.

    C. Rồi Người đem Phêrô, Giacôbê và Gioan theo Người và Người bắt đầu kinh sợ và buồn sầu. Người liền bảo các ông:

    J. “Linh hồn Thầy buồn đến chết được, các con hãy ở lại đây và tỉnh thức”.

    C. Tiến xa hơn một chút, Người phục xuống đất và cầu xin nếu có thể được thì xin cho qua khỏi giờ này. Và Người nguyện rằng:

    J. “Abba, Lạy Cha, Cha có thể làm được mọi sự, xin cất chén này khỏi con! Nhưng không theo ý con muốn, một theo ý Cha”.

    C. Người trở lại và thấy các ông đang ngủ, nên nói với Phêrô:

    J. “Simon, con ngủ ư? Con không có sức thức được một giờ sao? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì lanh lẹ, còn xác thịt thì yếu đuối”.

    C. Rồi Người đi khỏi đó và cầu nguyện cùng lời như trước. Khi trở lại lần nữa và thấy các ông còn ngủ (vì mắt các ông nặng trĩu) và các ông không còn biết thưa Người làm sao. Lần thứ ba, Người trở lại và bảo:

    J. “Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi. Thế là xong! Giờ đã đến: Này Con Người sắp bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Thôi! hãy chỗi dậy, chúng ta đi, kẻ nộp Thầy đã tới nơi”.

    C. Người còn đang nói, thì Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai đến, cùng đi với một toán đông mang gươm giáo và gậy gộc do các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão sai đến. Trước đó, tên phản bội đã ra hiệu cho chúng rằng:

    S. “Hễ tôi hôn mặt ai, thì đó chính là Ngài, các ông cứ bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận”.

    C. Vừa đến, nó liền tới gần Người mà nói:

    S. “Chào Thầy”.

    C. Và nó hôn Người. Và chúng tra tay bắt Người. Nhưng một người trong những kẻ đứng xung quanh rút gươm chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu nói với chúng rằng:

    J. “Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp! Hằng ngày, Ta ở giữa các ngươi, giảng dạy trong đền thờ mà sao các ngươi không bắt Ta. Nhưng thế là để ứng nghiệm lời Kinh Thánh”.

    C. Bấy giờ môn đệ bỏ Người và trốn đi hết. Có một thanh niên theo Người, mình chỉ quấn một tấm khăn, họ túm lấy anh ta, nhưng anh ta bỏ tấm khăn lại và chạy trốn mình trần.

    Chúng điệu Chúa Giêsu đến thầy thượng tế, các tư tế, luật sĩ và kỳ lão hội lại đông đủ. Còn Phêrô theo Người xa xa đến tận trong dinh thượng tế và ngồi sưởi lửa với đám đầy tớ. Vậy các thầy thượng tế và toàn thể công nghị tìm một chứng cáo Chúa Giêsu để giết Người, song họ không tìm ra. Có nhiều kẻ đã cáo gian Người, nhưng các chứng đó không hợp nhau. Tuy nhiên có nhiều kẻ đứng lên làm chứng gian cho Người rằng:

    S. “Chúng tôi đã nghe nó nói: Ta sẽ phá huỷ đền thờ này do tay loài người làm ra, và trong ba ngày, Ta sẽ xây lại một đền thờ khác không bởi tay loài người làm ra”.

    C. Nhưng chứng cớ của họ cũng không hợp nhau. Khi ấy, thầy thượng tế đứng lên giữa công nghị hỏi Chúa Giêsu rằng:

    S. “Sao ông không trả lời gì về những điều các người này tố cáo ông”.

    C. Nhưng Người vẫn thinh lặng và không đáp lại gì. Thầy thượng tế lại hỏi:

    S. “Ông có phải là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa đáng chúc tụng chăng?”

    C. Chúa Giêsu đáp:

    J. “Phải, chính Ta! Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngồi bên hữu Ðấng toàn năng và ngự đến trên đám mây”.

    C. Thầy thượng tế liền xé áo mình ra và nói:

    S. “Chúng ta còn cần chi đến nhân chứng nữa? Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông nghĩ sao?”

    C. Ai nấy đều lên án Người đáng chết. Rồi có kẻ bắt đầu nhổ vào Người, che mặt Người và đánh đấm Người mà rằng:

    S. “Hãy đoán xem!”

    C. Và bọn thủ hạ vả mặt Người.

    Phêrô đang ở ngoài sân tiền đường, thì có một đầy tớ gái của thầy thượng tế đến, thấy Phêrô đang sưởi, thì nhìn ông và nói:

    S. “Ông cũng theo Giêsu, người Nadarét”.

    C. Nhưng ông chối phắt mà rằng:

    S. “Tôi không biết, tôi không hiểu cô muốn nói gì”.

    C. Rồi ông đi ra ngoài phía trước tiền đường, và gà liền gáy. Lần nữa người đầy tớ thấy ông, liền nói với những người xung quanh rằng:

    S. “Ông này thuộc bọn đó”.

    C. Nhưng ông lại chối. Một lúc sau, những người ở đó lại nói với Phêrô rằng:

    S. “Ðúng ông thuộc bọn đó, vì cả ông cũng là người Galilêa”.

    C. Ông liền nguyền rủa nặng lời và thề rằng:

    S. “Tôi không biết người mà các ông nói đó”.

    C. Tức thì gà gáy lần thứ hai. Và Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã bảo ông: “Trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Ta ba lần”. Và ông liền than khóc.

    Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người:

    S. “Ông có phải là vua dân Do-thái không?”

    C. Chúa Giêsu đáp:

    J. “Ông nói đúng!”

    C. Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng:

    S. “Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!”

    C. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi:

    S. “Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?”

    C. (Vì quan đã biết rõ do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng:

    S. “Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?”

    C. Nhưng chúng lại kêu lên:

    S. “Ðóng đinh nó đi!”

    C. Philatô đáp lại:

    S. “Người này đã làm gì nên tội?”

    C. Song chúng càng la to hơn:

    S. “Ðóng đinh nó đi!”

    C. Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn chào Người rằng:

    S. “Tâu Vua dân Do-thái”.

    C. Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào.

    Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và nói:

    S. “Kià! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá đi!”

    C. Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau:

    S. “Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!”

    C. Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:

    J. “Eloi, Eloi, lema sabachtani!”

    C. Nghĩa là:

    J. “Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!”

    C. Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng:

    S. “Kìa, nó gọi Elia!”

    C. Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng:

    S. “Hãy đợi xem Elia có đến đem nó xuống không?”

    C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở.

    (Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

    Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng:

    S. “Ðúng người này là Con Thiên Chúa!”

    C. Cũng có những phụ nữ đứng nhìn từ đàng xa, trong số đó có bà Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê hậu và của Giuse, và bà Salômê, là những kẻ đã theo giúp Người khi Người còn ở xứ Galilêa. Và nhiều người khác cũng đã lên Giêrusalem với Người.

    Trời đã xế chiều và hôm đó lại là ngày chuẩn bị, áp ngày Sabbat. Ông Giuse quê ở Arimathia, một hội viên vị vọng trong công nghị, cũng là người trông đợi nước Thiên Chúa, ông mạnh dạn đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Philatô ngạc nhiên nghe nói Người đã chết, ông gọi viên sĩ quan đến và hỏi xem Người đã chế thật chưa. Khi được viên sĩ quan phúc trình, quan trao xác Người cho Giuse. Giuse đã mua một khăn trắng, hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá, liệm vào khăn và đặt trong mộ đã đục sẵn trong đá, và lăn một tảng đá lấp cửa mộ. Lúc đó bà Maria Mađalêna và Maria mẹ ông Giuse nhìn xem nơi Người được an táng.

    Hoặc đọc bài vắn này: Mc 15, 1-39

    C. Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người:

    S. “Ông có phải là vua dân Do-thái không?”

    C. Chúa Giêsu đáp:

    J. “Ông nói đúng!”

    C. Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng:

    S. “Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!”.

     

    C. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi:

    S. “Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?”

    C. (Vì quan đã biết rõ do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng:

    S. “Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?”

    C. Nhưng chúng lại kêu lên:

    S. “Ðóng đinh nó đi!”

    C. Philatô đáp lại:

    S. “Người này đã làm gì nên tội?”

    C. Song chúng càng la to hơn:

    S. “Ðóng đinh nó đi!”

    C. Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn chào Người rằng:

    S. “Tâu Vua dân Do-thái”.

    C. Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào.

    Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và nói:

    S. “Kià! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá đi!”

    C. Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau:

    S. “Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!”

    C. Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:

    J. “Eloi, Eloi, lema sabachtani!”

    C. Nghĩa là:

    J. “Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!”

    C. Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng:

    S. “Kìa, nó gọi Elia!”

    C. Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng:

    S. “Hãy đợi xem Elia có đến đem nó xuống không?”

    C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở.

    (Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

    Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng:

    S. “Ðúng người này là Con Thiên Chúa!”

     

    5. Suy niệm:  Chiếc lá cuộc đời

    Nghi thức khai mạc Tuần Thánh được gọi là “Lễ Lá”. Tuy cành lá chỉ chiếm vị trí rất khiêm tốn trong nghi thức, nhưng được dùng làm tên gọi cho Thánh lễ long trọng này. Thực ra, chỉ một chi tiết nhỏ trong Bài Thương Khó liên quan đến lá. Cả bốn tác giả Phúc Âm đều kể lại biến cố Đức Giê-su vào thành thánh. Thánh Mát-thêu và Mác-cô nhắc đến việc dân chúng rải lá trên đường để Đức Giê-su đi qua. Riêng thánh Gio-an lại tường thuật việc người dân cầm cành thiên tuế để đón Người. Những lời tung hô của người dân cho thấy, họ nhận ra nơi vị Ngôn sứ thành Na-da-rét hình ảnh của vua Đa-vít, một vị vua luôn là niềm tự hào của dân tộc Do Thái. “Hoan hô! Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua Ít-ra-en”. Những người Do Thái hiểu biết lịch sử sẽ dễ dàng nhận ra, đó là bầu khí tưng bừng của dân chúng năm xưa, khi họ đón Đa-vít chiến thắng lẫy lừng trước người Phi-li-tinh và trở về trong vinh quang. Thánh Gio-an còn trích dẫn Ngôn sứ Da-ca-ri-a (Dcr 9,9): “Hỡi thiếu nữ Si-on, đừng sợ! Này Đức Vua của ngươi ngự đến, ngồi trên lưng lừa con” (Ga 12,15). Cả bốn tác giả đều trình bày việc Đức Giê-su vào thành thánh như một cuộc khải hoàn mang tính thiên sai. Qua cuộc tiến vào thành thánh, Đức Giê-su chứng tỏ Người là Đấng Thiên Chúa đã hứa từ ngàn xưa và là Đấng muôn dân mong đợi.

    Chúng ta hãy trở về với những cành lá được dùng trong ngày Đức Giê-su vào thành thánh. Có những chiếc lá được rải trên lối đi. Có những chiếc lá được dân chúng cầm ở tay để tung hô chúc mừng. Chiếc lá nào cũng mang màu xanh mướt, biểu tượng của lòng nhiệt thành, niềm vui và sự tươi mát. Những chiếc lá này tượng trưng cho niềm hân hoan của dân chúng khi Chúa Giê-su tiến vào thành thánh. Tuy vậy, thân phận của những chiếc lá, dù rất đẹp, nhưng lại hết sức mong manh. Những chiếc lá hôm nay còn xanh, ngày mai đã ngả màu héo úa. Thánh lễ khai mạc Tuần Thánh dẫn khởi đầu bằng bầu khí hân hoan khi Chúa vào thành thánh, và kết thúc bi thương với hình ảnh Người chịu khổ nạn. Đức Giê-su, Đấng Công chính, đã trải qua nhiều đau thương trong những ngày cuối đời trên dương thế. Người luôn cam chịu mà không phản ứng lại. Người chấp nhận những gian khó vì vâng phục Chúa Cha và vì yêu mến nhân loại (Bài đọc I và Đáp ca). Trong suốt Tuần Thánh và nhất là Tam Nhật Vượt qua, chúng ta cùng với Giáo hội Hoàn vũ chiêm ngắm Đức Giê-su, một con người bị đánh đập tàn nhẫn đến biến dạng, bị vu khống đủ điều xấu xa và cuối cùng bị giết chết trên thập giá.

    Như những cành lá xanh nhanh chóng nhạt màu phai sắc. Người dân thành Giê-ru-sa-lem, khi đón Chúa vào thành, hân hoan tưng bừng là thế, mà chỉ mấy ngày sau đó họ thay lòng đổi dạ. Đó là một đám đông hỗn độn, bừng bừng sát khí đòi Phi-la-tô lên án tử cho Chúa Giê-su. Một chi tiết phụ trong trình thuật nhưng lại làm nổi bật sự hận thù vô cớ của người Do Thái, đó là trường hợp Ba-ra-ba. Anh ta là một tên trộm cướp, hoặc một thành viên băng đảng. Nhưng, một nghịch lý trớ trêu là người dân lại xin tha cho người tù khét tiếng này, để một mực bắt Chúa Giê-su phải chết. Phi-la-tô là người ngoại và là đại diện cho chính quyền dân sự. Ông muốn tha Chúa Giê-su. Gợi ý tha bổng một tù nhân vào dịp lễ Vượt qua là một lối thoát nhằm phóng thích Chúa Giê-su, nhưng bất thành. Chúa Giê-su đã bị lên án tử. Bản án và việc xét xử được thực hiện vội vàng, ngay trong đêm. Chúa Giê-su đã phải tự vác thập giá đến nơi hành hình và đã bị đóng đinh trên cây gỗ ấy.

    Chắc chắn trong lúc dân chúng kết án Chúa Giê-su trong cảnh hỗn loạn, có những người mến Chúa và thương Chúa. Họ rất muốn minh oan cho Chúa Giê-su. Tuy vậy, tiếng nói của họ quá nhỏ, bị át bởi cường quyền và đám đông đang hầm hầm giận giữ. Và, những tiếng nói của lẽ phải ấy đã bị bóp nghẹt. Ngày hôm nay cũng thế, có biết bao tiếng nói đòi công bằng và tôn trọng nhân phẩm bị bóp nghẹt giữa cơn cuồng phong của những kẻ mạnh vô luân!

    Mỗi năm, chúng ta cử hành Lễ Lá để phác hoạ và diễn tả cuộc vào thành Giê-ru-sa-lem long trọng của Chúa Giê-su năm xưa. Phụng vụ có đề nghị nghi thức làm phép lá và phát cho dân chúng. Sách nghi lễ còn nói rõ: khi đi rước, vị chủ tế đi trước, sau đó là những người giáo dân, tay cầm ngành lá phấp phới. Chúng ta cũng thường có thói quen mang cành lá đã được làm phép về trưng bày tại gia đình, như một gợi nhớ về ý nghĩa Phụng vụ Tuần Thánh. Đó cũng là một nhắc nhở cho chúng ta về thân phận con người, và lòng trung thành trong đức tin và trong cách đối nhân xử thế.

    Cuộc đời chúng ta như một chiếc lá. Vòng đời của chiếc lá khởi đầu từ ngày hé nở cho đến ngày úa vàng rồi rụng xuống đất. Vòng đời ấy dài hay ngắn tuỳ thuộc mỗi loại cây. Nhưng tất cả đều có một điểm giống nhau, là nếu rời khỏi cành, thì sẽ tàn úa. Chiếc lá xanh của lễ khai mạc Tuần Thánh nhắc cho chúng ta sự mỏng giòn chóng qua của kiếp người. Chiếc lá cũng nhắc chúng ta về sự thay đổi bất nhất của lòng dạ con người. Quả vậy, hành trình cất bước theo Chúa Giê-su, là hành trình liên lỉ suốt đời. Trong hành trình ấy, có nhiều khó khăn chông gai thử thách. Con Thiên Chúa đã mang thân phận con người, đã lao nhọc trên mọi nẻo đường loan báo Tin Mừng và cuối cùng đã chết trên thập giá. Hình ảnh Đức Giê-su vác thập giá như nguồn khích lệ động viên mỗi chúng ta. Bởi lẽ thập giá, tức là những khổ đau, mâu thuẫn và thất bại, không từ một ai. Chúa Giê-su đã vác thập giá, và hôm nay Người cũng đang cùng vác thập giá với mỗi chúng ta. “Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi” (Mt 11,28). Chúa đã hứa với chúng ta như thế.

    Xin Chúa giúp sức, để chúng ta có thể gìn giữ tâm hồn và cuộc đời luôn thắm mãi màu xanh. Amen.

    +TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

    Nguồn tin:  https://www.tonggiaophanhanoi.org/

    Bài viết liên quan