Suy niệm Tin mừng Chúa Nhật Lễ Lá năm C (Lc 22,14 - 23,56)

  • 11/04/2025 21:01
  • Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa.

     

    Tin Mừng – kiệu lá:  Lc 19, 28-40

    Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa.

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.

    Khi ấy, Chúa Giêsu đi trước lên Giêrusalem. Và xảy ra là khi Người đến gần Bếtphaghê và Bêtania, giáp núi gọi là núi Cây Dầu, Người sai hai môn đệ đi và bảo rằng: “Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp con lừa con cột sẵn đó chưa ai cỡi bao giờ; các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con “Tại sao các ông mở dây?”, thì hãy nói thế này: “Vì Chúa cần dùng đến nó”. Hai người được sai ra đi, và gặp lừa con đứng đó như Chúa đã bảo. Hai ông đang mở dây lừa con, thì chủ nó hỏi r?ng: “Sao các ông mở dây lừa con?” Hai ông đáp: “Vì Chúa cần đến nó”. Hai ông dắt lừa về cho Chúa Giêsu, trải áo lên mình lừa và đặt Chúa lên trên. Dọc đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà rằng: “Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời”. Một vài người biệt phái trong đám đông nói cùng Người rằng: “Thưa Thầy, xin hãy mắng các môn đệ Ngài đi”. Chúa Giêsu nói: “Tôi bảo cho các ông biết: nếu họ làm thinh, thì những viên đá sẽ la lên”.

    Đó là Lời Chúa.

     

    1. Bài đọc 1: Is 50, 4-7

    “Tôi đã không giấu mặt mũi tránh những lời nhạo cười, nhưng tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn”.

    (Bài ca thứ ba về Người Tôi Tớ Chúa)

    Trích sách Tiên tri Isaia.

    Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Mỗi sáng Người đánh thức tôi, Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn. Thiên Chúa đã mở tai tôi, mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn.

    Đó là Lời Chúa.

     

    2.  Đáp ca: Tv 21, 8-9. 17-18a. 19-20. 23-24

    Ðáp: Ôi Thiên Chúa! Ôi Thiên Chúa! sao Chúa đã bỏ con? (c. 2a)

    Xướng:

    1) Bao người thấy con đều mỉa mai con, họ bĩu môi, họ lắc đầu: “Hắn tin cậy Chúa, xin Ngài cứu hắn, xin Ngài giải gỡ hắn, nếu Ngài yêu thương”.

    2) Ðứng quanh con là đàn ưng khuyển, một lũ côn đồ bao bọc lấy con. Chân tay con chúng đều chọc thủng, con có thể đếm được mọi đốt xương con. 

    3) Phần chúng thì nhìn xem con và vui vẻ, đem y phục của con chia sẻ với nhau, còn tấm áo dài, thì chúng rút thăm… Phần Ngài, lạy Chúa, xin chớ đứng xa con, ôi Ðấng phù trợ con, xin kíp ra tay nâng đỡ. 

    4) Con sẽ tường thuật danh Chúa cho các anh em, giữa nơi công hội, con sẽ ngợi khen Người. “Chư quân là người tôn sợ Chúa, xin hãy ca khen Chúa, toàn thể miêu duệ nhà Giacóp, hãy chúc tụng Người, hãy tôn sợ Người, hết thảy dòng giống Israel!”

     

    3. Bài đọc 2: Pl 2, 6-11

    “Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người”.

    Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.

    Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang.

    Đó là Lời Chúa.

     

    4.  Bài Thương Khó: Lc 22, 14 – 23. 56 (bài dài)

    “Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.

    C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S. Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu

    C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Luca.

    Ðến giờ, Chúa Giêsu vào bàn ăn với mười hai tông đồ và bảo các ông:

    J. “Thầy đã tha thiết ước ao ăn Lễ Vượt Qua này với các con trước khi chịu khổ nạn. Thầy bảo các con, Thầy sẽ chẳng bao giờ ăn lễ này nữa, cho đến khi lễ này được thực hiện trong nước Thiên Chúa”.

    C. Rồi Người cầm chén, tạ ơn và phán:

    J. “Các con hãy lãnh nhận chén này mà chia cho nhau: Thầy bảo cho các con biết: Thầy sẽ không uống thứ nho này nữa cho đến khi nước Thiên Chúa đến!”

    C. Ðoạn Người cầm bánh và tạ ơn, bẻ ra và trao cho các ông mà phán:

    J. “Này là Mình Ta hiến ban vì các con, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”.

    C. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén mà phán:

    J. “Chén này là Tân ước trong Máu Ta sẽ đổ ra vì các con. Vả lại này tay kẻ nộp Ta đang ở gần Ta, ngay trên bàn này. Ðành rằng Con Người sẽ ra đi như đã được ấn định, nhưng vô phúc cho kẻ nộp Người!”

    C. Bấy giờ các ông bắt đầu hỏi nhau xem ai trong nhóm họ là kẻ làm điều đó. Giữa các ông cũng xảy ra một cuộc tranh giành xem ai trong họ được coi là cao trọng hơn hết. Nhưng Người bảo:

    J. “Vua chúa các dân ngoại thì thống trị dân, và những kẻ có quyền hành trên dân thì bắt dân gọi mình là ân nhân. Phần các con, thì không như thế, vì ai cao trọng hơn các con thì hãy trở thành như người nhỏ nhất, và kẻ làm đầu, hãy trở thành như người hầu bàn. Vì người ngồi ăn và kẻ hầu hạ, ai trọng hơn, nào chẳng phải là người ngồi ăn ư? Thế mà Thầy, Thầy ở giữa các con như người hầu hạ. Còn các con, các con đã kiên trì với Thầy trong các cơn gian nan của Thầy, và Thầy xếp đặt nước trời cho các con như Cha Thầy đã xếp đặt cho Thầy, để các con sẽ được ăn uống đồng bàn trong nước Thầy, và được ngồi trên toà xét xử mười hai chi tộc Israel!”

    C. Rồi Chúa nói:

    J. “Simon, Simon, này ma quỷ đã đòi sàng các con như sàng gạo, nhưng Ta đã cầu nguyện để con khỏi mất đức tin. Và phần con, khi đã trở lại, con hãy làm cho anh em con vững tin”.

    C. Ông thưa Người:

    S. “Lạy Thầy, con sẵn sàng theo Thầy, dù vào tù hay đi chịu chết”.

    C. Nhưng Người đáp:

    J. “Phêrô, Thầy bảo cho con biết: hôm nay khi gà chưa gáy, con đã chối rằng không biết Thầy”.

    C. Và Người bảo các ông:

    J. “Khi Thầy sai các con đi không mang theo túi tiền, không bị, không giày dép, nào các con có thiếu thốn sự gì không?”

    C. Các ông thưa:

    S. “Không thiếu gì cả”.

    C. Vậy Người nói:

    J. “Nhưng bây giờ ai có túi tiền, hãy cầm lấy, ai có bị, cũng hãy làm như vậy, và ai không có gươm, thì hãy bán áo choàng mình mà mua lấy gươm. Vì Thầy bảo các con hay: còn điều này chép về Thầy cũng cần phải được ứng nghiệm: “Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác”. Vì mọi điều đã chép về Thầy phải được hoàn tất”.

    C. Các ông thưa Người:

    S. “Thưa Thầy, này có hai thanh gươm đây”.

    C. Và Người bảo:

    J. “Ðủ rồi”.

    C. Ðoạn Người ra đi lên núi cây ôliu như thường lệ. Các môn đệ cũng đi theo Người. Ðến nơi, Người bảo các ông:

    J. “Các con hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ”.

    C. Rồi Người đi xa các ông một quãng bằng ném một hòn đá và quỳ gối cầu nguyện rằng:

    J. “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin Cha cất chén này xa con. Nhưng xin đừng theo ý con muốn, một theo ý Cha”.

    C. Bấy giờ có thiên thần từ trời hiện ra an ủi Người. Và lâm cơn hấp hối, Người cầu nguyện thiết tha hơn, và mồ hôi Người chảy ra như những giọt máu rơi xuống đất. Cầu nguyện xong, Người đứng dậy, trở lại chỗ các môn đệ, và thấy các ông còn đang ngủ vì buồn sầu. Người liền bảo:

    J. “Các con ngủ ư? Hãy dậy và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ”.

    C. Người còn đang nói, thì này đây một lũ đông, và một người trong nhóm Mười Hai là Giuđa dẫn đầu. Hắn lại gần Chúa Giêsu để hôn Người. Chúa Giêsu bảo hắn:

    J. “Giuđa, ngươi lấy cái hôn để nộp Con Người ư?”

    C. Thấy các sự sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi:

    S. “Thưa Thầy, chúng con có nên dùng gươm mà chém không?”

    C. Và một người trong các ông chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt tai phải. Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo:

    J. “Thôi, đủ rồi”.

    C. Và Người sờ vào tai người đầy tớ ấy mà chữa cho y lành lại. Rồi Chúa Giêsu bảo các kẻ đến bắt Người gồm các thượng tế, trưởng vệ binh đền thờ và kỳ lão rằng:

    J. “Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ giữa các ngươi mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng đây là giờ của các ngươi và của quyền lực tối tăm”.

    C. Chúng liền bắt Người và điệu tới nhà thầy thượng tế. Còn Phêrô đi theo xa xa.

    Họ đốt lửa ngay giữa sân và ngồi vòng quanh, Phêrô cũng ngồi lẫn với họ. Một đứa đầy tớ gái thấy ông ngồi gần lửa, thì nhìn kỹ ông và bảo:

    S. “Cả ông này cũng theo hắn”.

    C. Nhưng ông chối và nói:

    S. “Này chị, tôi đâu quen biết người ấy”.

    C. Một lát sau, có người khác nhìn ông và nói:

    S. “Chính ông cũng là người trong bọn đó”.

    C. Nhưng Phêrô đáp:

    S. “Này anh, đâu có phải tôi”.

    C. Chừng một giờ sau, một người khác lại quả quyết rằng:

    S. “Ðúng ông này cũng theo người ấy: vì ông ta cũng là người xứ Galilêa”.

    C. Phêrô đáp:

    S.“Này anh, tôi không biết anh muốn nói gì?”

    C. Khi ông còn đang nói, thì lập tức gà liền gáy. Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô. Bấy giờ Phêrô mới sực nhớ lời Chúa đã bảo ông trước: Khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần. Phêrô liền ra ngoài và khóc lóc thảm thiết.

    Những kẻ canh giữ người, nhạo cười và đánh đập Người. Chúng che mặt Người, vả mặt mà hỏi Người rằng:

    S. “Hãy đoán xem ai đánh ngươi đó”.

    C. Và chúng còn thốt ra nhiều lời khác nhục mạ Người. Vừa sáng ngày, các kỳ lão trong dân, các thượng tế và các luật sĩ hội lại và cho điệu Người ra trước công nghị mà nói:

    S. “Nếu ông là Ðấng Kitô, hãy nói cho chúng tôi hay”.

    C. Người trả lời:

    J. “Tôi có nói, các ông cũng chẳng tin tôi, và nếu tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời và cũng chẳng tha tôi. Nhưng từ giờ đây, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng”.

    C. Mọi người đều hỏi lại:

    S. “Vậy ông là Con Thiên Chúa ư?”

    C. Người đáp:

    J. “Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa”.

    C. Bấy giờ họ nói:

    S. “Chúng ta còn cần chứng cớ chi nữa? Vì chính chúng ta cũng nghe y nói”.

    C. Ðoạn tất cả bọn họ đứng dậy và giải Người đến Philatô.

    Họ bắt đầu tố cáo Người rằng:

    S. “Chúng tôi đã thấy người này xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Cêsarê, và còn tự xưng là Kitô Vua”.

    C. Philatô bảo các thượng tế và đám đông rằng:

    S. “Ta không thấy người này có tội gì”.

    C. Nhưng họ cố nài rằng:

    S. “Người này đã làm náo động dân chúng, giảng dạy khắp xứ Giuđêa, bắt đầu từ Galilêa đến đây”.

    C. Philatô vừa nghe nói đến Galilêa, liền hỏi cho biết có phải đương sự là người xứ Galilêa không. Và khi đã biết Người thuộc thẩm quyền Hêrôđê, quan liền sai giải Người cho Hêrôđê cũng có mặt tại Giêrusalem trong những ngày ấy. Hêrôđê thấy Chúa Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu, ông ao ước thấy Người, bởi đã nghe nói về Người rất nhiều, và hy vọng xem Người làm một vài phép lạ. Nhà vua hỏi Người rất nhiều lời, nhưng Người không đáp gì hết. Trong khi ấy, các thượng tế và luật sĩ ở đó tố cáo Người dữ dội. Còn Hêrôđê cùng các quan lính thì khinh dể và nhạo báng Người, đoạn khoác cho Người một cái áo choàng trắng và gởi trả Người cho Philatô. Chính ngày đó, Hêrôđê và Philatô trở thành bạn hữu, vì trước kia họ là thù địch với nhau.

    Bấy giờ Philatô triệu tập các thượng tế, các thủ lãnh và dân chúng lại, rồi bảo họ:

    S.“Các ngươi đã nộp cho ta người này như một kẻ xúi giục dân làm loạn, nhưng đây ta đã tra xét trước mặt các ngươi, và ta không thấy người này phạm tội nào trong những tội các ngươi tố cáo. Cả vua Hêrôđê cũng thấy như vậy, vì ta đã cử các ngươi đến nhà vua và nhà vua cũng không thấy có chi đáng tội chết cả. Vậy ta sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi”.

    C. Mỗi dịp lễ, quan tổng trấn phải phóng thích cho họ một người tù. Vậy toàn dân đồng thanh kêu lên:

    S. “Hãy giết người này, và tha Baraba cho chúng tôi”.

    C. Tên này vì dấy loạn trong thành và giết người, nên đã bị tống ngục. Nhưng Philatô muốn tha Chúa Giêsu, nên lại nói với dân chúng. Nhưng chúng càng la to hơn và nói:

    S. “Hãy đóng đinh nó, hãy đóng đinh nó vào thập giá!”

    C.Lần thứ ba, quan lại nói với dân chúng:

    S. “Người này đã làm gì xấu? Ta không thấy nơi ông ấy có lý do để lên án tử hình. Vậy ta sẽ trừng phạt, rồi tha đi”.

    C. Chúng lại la lớn tiếng, nhất định đòi đóng đinh Người vào thập giá, và tiếng la hét của chúng càng dữ dội hơn. Philatô liền tuyên án theo lời chúng yêu cầu. Vậy quan phóng thích tên đã bị cầm tù vì dấy loạn và giết người, là kẻ mà chúng đã xin tha, còn Chúa Giêsu thì quan trao phó để mặc ý chúng.

    Khi điệu Người đi, chúng bắt một người xứ Xyrênê, tên Simon, ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác thập giá theo sau Chúa Giêsu. Ðám đông dân chúng theo Người, có cả mấy người phụ nữ khóc thương Người. Nhưng Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại bảo họ rằng:

    J. “Hỡi con gái Giêrusalem, đừng khóc thương Ta, hãy khóc thương chính các ngươi và con cái các ngươi. Vì này, sắp đến ngày người ta sẽ than rằng: “Phúc cho người son sẻ, phúc cho những lòng không sinh nở và những vú không nuôi con”. Bấy giờ người ta sẽ lên tiếng với núi non rằng: “Hãy đổ xuống đè chúng tôi”, và nói với các gò nổng rằng: “Hãy che lấp chúng tôi đi”. Vì nếu cây tươi còn bị xử như vậy, thì gỗ khô sẽ ra sao?”

    C. Cùng với Người, chúng còn điệu hai tên gian ác nữa đi xử tử. Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu và một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng:

    J. “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”.

    C. Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Dân chúng đứng đó nhìn xem, và các thủ lãnh thì cười nhạo Người mà rằng:

    S. “Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Ðấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn”.

    C.Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói:

    S. “Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi”.

    C. Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: “Người này là vua dân Do-thái”. Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng:

    S. “Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa”.

    C. Ðối lại, tên kia mắng nó rằng:

    S. “Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao. Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn Ông này, Ông có làm gì xấu đâu?”

    C. Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng:

    S. “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”.

    C. Chúa Giêsu đáp:

    J. “Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.

    C. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ chín. Mặt trời trở nên u ám, màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa. Lúc đó Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:

    J. “Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha”.

    C. Nói đoạn, Người trút hơi thở.

    (Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

    Thấy sự việc xảy ra, viên sĩ quan ca tụng Thiên Chúa rằng:

    S. “Ông này quả thật là người công chính”.

    C. Và tất cả dân chúng có mặt thấy cảnh tượng đó, và chứng kiến những sự việc xảy ra, liền đấm ngực trở về.

    Ðứng xa xa, có những kẻ quen biết Người, và mấy phụ nữ đi theo Người từ xứ Galilêa, họ cũng chứng kiến. Tuy nhiên, có một công nghị viên tên là Giuse, người tốt lành và công chính. Ông này đã không đồng ý với mưu toan và hành động của các công nghị viên khác, ông quê ở thành Arimathia trong xứ Giuđêa, chính ông cũng trông đợi nước Chúa. Ông đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Ðoạn ông hạ xác Người xuống, liệm trong khăn và táng trong mồ đã đục sẵn, nơi chưa táng xác ai. Hôm đó là ngày chuẩn bị và sắp bước sang ngày Sabbat. Trong khi đó, những người phụ nữ đã đi với Người từ xứ Galilêa, cũng theo đến xem mồ và xác Người được táng như thế nào. Rồi các bà về sửa soạn thuốc thơm và dầu thơm. Nhưng trong ngày Sabbat, các bà nghỉ theo đúng luật.

     

    Hoặc đọc bài vắn này:  Lc 23, 1-49

    C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Luca.

    Khi ấy, tất cả công nghị đứng dậy và giải Người đến Philatô. Họ bắt đầu tố cáo Người rằng:

    S. “Chúng tôi đã thấy người này xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Cêsarê, và còn tự xưng là Kitô Vua”.

    C. Philatô bảo các thượng tế và đám đông rằng:

    S. “Ta không thấy người này có tội gì”.

    C. Nhưng họ cố nài rằng:

    S. “Người này đã làm náo động dân chúng, giảng dạy khắp xứ Giuđêa, bắt đầu từ Galilêa đến đây”.

    C. Philatô vừa nghe nói đến Galilêa, liền hỏi cho biết có phải đương sự là người xứ Galilêa không. Và khi đã biết Người thuộc thẩm quyền Hêrôđê, quan liền sai giải Người cho Hêrôđê cũng có mặt tại Giêrusalem trong những ngày ấy. Hêrôđê thấy Chúa Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu, ông ao ước thấy Người, bởi đã nghe nói về Người rất nhiều, và hy vọng xem Người làm một vài phép lạ. Nhà vua hỏi Người rất nhiều lời, nhưng Người không đáp gì hết. Trong khi ấy, các thượng tế và luật sĩ ở đó tố cáo Người dữ dội. Còn Hêrôđê cùng các quan lính thì khinh dể và nhạo báng Người, đoạn khoác cho Người một cái áo choàng trắng và gởi trả Người cho Philatô. Chính ngày đó, Hêrôđê và Philatô trở thành bạn hữu, vì trước kia họ là thù địch với nhau.

    Bấy giờ Philatô triệu tập các thượng tế, các thủ lãnh và dân chúng lại, rồi bảo họ:

    S. “Các ngươi đã nộp cho ta người này như một kẻ xúi giục dân làm loạn, nhưng đây ta đã tra xét trước mặt các ngươi, và ta không thấy người này phạm tội nào trong những tội các ngươi tố cáo. Cả vua Hêrôđê cũng thấy như vậy, vì ta đã cử các ngươi đến nhà vua và nhà vua cũng không thấy có chi đáng tội chết cả. Vậy ta sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi”.

    C. Mỗi dịp lễ, quan tổng trấn phải phóng thích cho họ một người tù. Vậy toàn dân đồng thanh kêu lên:

    S. “Hãy giết người này, và tha Baraba cho chúng tôi”.

    C. Tên này vì dấy loạn trong thành và giết người, nên đã bị tống ngục. Nhưng Philatô muốn tha Chúa Giêsu, nên lại nói với dân chúng. Nhưng chúng càng la to hơn và nói:

    S. “Hãy đóng đinh nó, hãy đóng đinh nó vào thập giá!”

    C. Lần thứ ba, quan lại nói với dân chúng:

    S. “Người này đã làm gì xấu? Ta không thấy nơi ông ấy có lý do để lên án tử hình. Vậy ta sẽ trừng phạt, rồi tha đi”.

    C. Chúng lại la lớn tiếng, nhất định đòi đóng đinh Người vào thập giá, và tiếng la hét của chúng càng dữ dội hơn. Philatô liền tuyên án theo lời chúng yêu cầu. Vậy quan phóng thích tên đã bị cầm tù vì dấy loạn và giết người, là kẻ mà chúng đã xin tha, còn Chúa Giêsu thì quan trao phó để mặc ý chúng.

    Khi điệu Người đi, chúng bắt một người xứ Xyrênê, tên Simon, ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác thập giá theo sau Chúa Giêsu. Ðám đông dân chúng theo Người, có cả mấy người phụ nữ khóc thương Người. Nhưng Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại bảo họ rằng:

    J. “Hỡi con gái Giêrusalem, đừng khóc thương Ta, hãy khóc thương chính các ngươi và con cái các ngươi. Vì này, sắp đến ngày người ta sẽ than rằng: “Phúc cho người son sẻ, phúc cho những lòng không sinh nở và những vú không nuôi con”. Bấy giờ người ta sẽ lên tiếng với núi non rằng: “Hãy đổ xuống đè chúng tôi”, và nói với các gò nổng rằng: “Hãy che lấp chúng tôi đi”. Vì nếu cây tươi còn bị xử như vậy, thì gỗ khô sẽ ra sao?”

    C. Cùng với Người, chúng còn điệu hai tên gian ác nữa đi xử tử. Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu và một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng:

    J. “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”.

    C. Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Dân chúng đứng đó nhìn xem, và các thủ lãnh thì cười nhạo Người mà rằng:

    S. “Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Ðấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn”.

    C. Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói:

    S. “Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi”.

    C. Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: “Người này là vua dân Do-thái”. Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng:

    S. “Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa”.

    C. Ðối lại, tên kia mắng nó rằng:

    S. “Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao. Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn Ông này, Ông có làm gì xấu đâu?”

    C. Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng:

    S. “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”.

    C. Chúa Giêsu đáp:

    J. “Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.

    C.Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ chín. Mặt trời trở nên u ám, màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa. Lúc đó Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:

    J. “Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha”.

    C. Nói đoạn, Người trút hơi thở.

    (Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

    Thấy sự việc xảy ra, viên sĩ quan ca tụng Thiên Chúa rằng:

    S. “Ông này quả thật là người công chính”.

    C. Và tất cả dân chúng có mặt thấy cảnh tượng đó, và chứng kiến những sự việc xảy ra, liền đấm ngực trở về.

    Ðứng xa xa, có những kẻ quen biết Người, và mấy phụ nữ đi theo Người từ xứ Galilêa, họ cũng chứng kiến.

     

    5. Suy niệm:  

    Hôm nay, Giáo hội dẫn chúng ta bắt đầu bước vào Tuần Thánh. Đây chính là đỉnh cao của năm Phụng vụ. Với bài Tin mừng khá dài, Giáo hội mời gọi ta thông dự vào những giây phút linh thiêng cuối cùng trong sứ vụ cứu thế của Chúa Giêsu. Đấng “vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Phl 2,6-7). Chỉ vì yêu nhân loại, Ngài đã ôm lấy tất cả mọi người, mong muốn cho con người được sống. Ngài không chọn dùng quyền năng của một Thiên Chúa nhưng Ngài chọn con đường thập giá. Và  hôm nay, Ngài tiến vào Giêrusalem để hoàn tất sứ vụ cứu thế của Ngài, dẫu biết rằng sẽ gặp nhiều khó khăn phía trước.

    Có thể nói, trong bài Tin mừng của ngày Lễ Lá ta thấy được nhiều mặt của con người trong cuộc sống chung quanh Chúa Giêsu: từ người có vị trí cao nhất trong xã hội đến những con người thấp hèn nhất; có cả những người thánh thiện bên cạnh những tội nhân; từ những người thân cận bên Chúa đến những con người xa lạ đều tập trung lại thành một đám đông có đủ mọi hạng người. Trong đó, có những người từng cầm lá tung hô rước Chúa vào thành, rồi sau đó lại hô to: đóng đinh Chúa vào thập giá; cũng có người thề hứa sống chết với Chúa nhưng rồi lại chối Chúa, phản bội Chúa, bỏ Chúa trong lúc Chúa đau đớn, cô đơn đến tột cùng. Một sự thay lòng thật khó chấp nhận. Thế nhưng, thực tế đã vẽ lên bức tranh tuyệt vời: một bên là những con người yếu đuối tội lỗi, nhất quyết đóng đinh Đấng Vô Tội; một bên là Đấng Vô Tội đã dùng tình yêu để cứu con người ra khỏi vũng lầy tội lỗi qua cái chết đau thương trên thập tự.

    Thật vậy, Chúa Giê-su trong thân phận con người yếu đuối, nhiều lúc Ngài cảm thấu sự sợ hãi, cô đơn  Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cho Con khỏi uống chén này; tuy vậy, xin đừng làm theo ý Con mà xin theo ý Cha” (Lc 22,42). Đối diện với biết bao khó khăn, những sự chống đối, bày mưu đưa đến đường cùng, Chúa Giêsu vẫn một lòng trung tín với sứ mạng được Chúa Cha trao phó. Ngài đến để làm theo ý Cha. Ngài đến để phục vụ trong hiền lành và khiêm tốn, trong tinh thần vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập giá.

    Bước vào tuần thánh với cuộc thương khó của Chúa Giê-su, Giáo hội không mời gọi ta cử hành chỉ như sự tưởng nhớ một biến cố lịch sử, nhưng Giáo hội mời gọi con cái sống lại cùng với Chúa Giêsu, cùng bước đi, cùng cảm nhận với Ngài và sống theo con đường Ngài đã đi. Là kito hữu, ta đặt mình vào dòng người hôm đó, với những khuôn mặt trong những cuộc rước long trọng này; và tự hỏi: tôi là ai? phải chăng mỗi nhân vật cũng đã phản ánh phần nào nơi ta trong những thăng trầm của cuộc sống? giữa biết bao tiếng mời gọi ta chọn ai? chọn con đường nào?

    Lạy Chúa! Chúng con đang trải qua những ngày chay thánh trong hành trình lữ hành hy vọng, với biết bao hồng ân Chúa ban cùng những lời Ngài mời gọi chúng con trở về. Chúng con đã cố gắng bước đi theo Chúa, cố gắng sống theo Lời Chúa dạy; nhưng quả thật không dễ dàng. Yếu đuối đã làm lung lay sự lựa chọn ban đầu của chúng con. Việc không xác tín, không nuôi dưỡng lòng tin yêu của mình với Thiên Chúa đã từng bước kéo con xa dần lòng trung thành với Ngài. Khi vô tình hay cố ý phạm tội, con đã tự mình góp mặt vào đám đông, tham gia vào việc đóng đinh Chúa. Tinh thần đúng thật là hăng hái nhưng thể xác lại quá nặng nề. Xin Chúa tha thứ và biến đổi con như Chúa đã biến đổi người trộm lành, đã biến đổi viên đại đội trưởng, để con có thể cùng Ngài vác thập giá hằng ngày cách trung thành trong ân nghĩa Chúa để cùng được phục sinh với Ngài trong vinh quang.

    Tập sinh Đa Minh TB

     

    5.2  Suy niệm 2: Đau khổ và vinh quang

    Phụng vụ Tuần Thánh mở đầu bằng nghi thức làm phép lá và rước lá, sau đó là thánh lễ mà đỉnh cao là trình thuật về cuộc thương khó của Đức Giê-su. Các Bài đọc Kinh Thánh, nhất là Bài Thương khó, nêu bật hai khía cạnh của cuộc thương khó Đức Giê-su: Đau khổ và Vinh quang. Hai khía cạnh này hòa quyện với nhau, tạo nên nét độc đáo và làm cho cuộc tử nạn của Chúa Giê-su trên đồi Can-vê năm xưa không giống như bất kỳ vụ thi hành án nào trong lịch sử.

    Bài đọc I trích sách Ngôn sứ I-sa-i-a nói với chúng ta về một nhân vật bị đánh bầm dập, thân mình mang đầy thương tích. Tuy vậy, nhân vật được trình bày lại chấp nhận đau khổ như một tự nguyện. Nhân vật ấy là Người Tôi tớ Đức Gia-vê. Vị Tôi tớ luôn trong trạng thái tỉnh thức để lắng nghe lời giáo huấn của Thiên Chúa, và niềm tin cậy phó thác đã đem lại cho Người sức mạnh trong gian nan. Dưới lăng kính Ki-tô giáo, đây chính là hình ảnh của Đức Giê-su chịu khổ hình. Cuộc thương khó vừa là một khổ hình do người Do Thái gây nên, đồng thời cũng là một hành vi tự nguyện của Chúa Giê-su, vì vâng lời Chúa Cha. Mặc dù sợ hãi đến mức toát mồ hôi máu, Đức Giê-su, người Tôi tớ Gia-vê đã tự nguyện bước vào cuộc thương khó, với niềm xác tín “có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi”. Cần lưu ý là sách ngôn sứ I-sai-a có bốn bài ca về Người Tôi tớ Đức Gia-vê. Mỗi bài diễn tả một khía cạnh, và tất cả bốn bài ca đó đã trở thành hiện thực nơi Đức Giê-su. Bài cuối cùng ở chương 52 được đọc trong Phụng vụ suy tôn Thánh giá chiều thứ Sáu tuần Thánh, với nội dung diễn tả cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giê-su qua biến cố thập giá.

    Hai khía cạnh đau khổ và vinh quang cũng được thánh Phao-lô quảng diễn trong Bài đọc II. Đức Giê-su là Thiên Chúa tối cao. Người đã hạ mình mang lấy thân phận con người như chúng ta, chỉ ngoại trừ tội lỗi. Người đã trút bỏ vinh quang để mang thân phận nô lệ. Sự hạ mình của Ngôi Lời vừa thể hiện qua mầu nhiệm nhập thể, vừa thể hiện qua biến cố khổ nạn thập giá. Nói cách khác, sự khiêm tốn vâng lời liên lỉ của Đức Giê-su, được trải dài từ ngày Truyền tin đến đỉnh đồi Can-vê. Tuy vậy, thánh Phao-lô khẳng định, cái chết và nấm mộ không phải là tiếng nói cuối cùng của Thiên Chúa. Sau thập giá là vinh quang. Thiên Chúa Cha đã siêu tôn Đức Giê-su, và ban cho Người danh hiệu “trổi vượt trên muôn vàn danh hiệu”. Điều thánh Phao-lô viết trong thư gửi giáo dân Phi-líp-phê hôm nay đã được thực hiện: đó là hàng tỷ Ki-tô hữu trên hoàn cầu tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Cứu độ.

    Trình thuật thương khó theo thánh Lu-ca như một vở kịch gồm nhiều phân cảnh, với nhiều cung bậc cảm xúc. Vở kịch này khởi đầu từ phòng tiệc ly và kết thúc trên đồi Can-vê. Chúng ta thấy mỗi khi Đức Giê-su nói về những gì đang xảy ra trong hiện tại, thì Người cũng liên hệ tới tương lai. Nếu bữa tiệc ly là lần cuối cùng Người uống chén rượu nho vật chất, thì Người cũng hứa sẽ được cùng với các môn đệ dùng rượu nho mới khi triều đại của Thiên Chúa đến. Khi bị bắt trong vườn Cây Dầu, dù bị quân lính bao quanh sát khí đằng đằng, Chúa Giê-su vẫn khảng khái nói: Đây là giờ của quyền lực tối tăm. Nhân vật Phi-la-tô được trình bày nổi bật trong cuộc thương khó của Đức Giê-su. Ông này vừa kính phục Chúa Giê-su, nhưng lại sợ người Do Thái. Thực sự ông muốn cứu Chúa Giê-su, và ông đã tìm một lối mở, đó là đưa ra trường hợp Ba-ra-ba như một lá bài để thương thuyết. Ấy vậy mà người Do Thái đồng thanh xin tha cho một kẻ giết người. Trong cuộc thương khó, giữa tiếng ồn ào của đám đông bị kích động, Con Thiên Chúa thì bị án tử, và kẻ sát nhân lại được tha! Chi tiết này đã làm cho cuộc thương khó của Chúa Giê-su thêm phần bi kịch.

    Trình thuật thương khó kết thúc ở nấm mồ. Các môn đệ và những người phụ nữ trước đây đã theo Chúa Giê-su đang ở trong một tâm trạng hoang mang tột độ. Họ không biết những gì sẽ tiếp tục xảy đến. Với lòng yêu mến và kính trọng Thầy mình, các môn đệ đã hạ xác Chúa và vội vàng an táng trong mồ. Những người phụ nữ thì chuẩn bị thuốc thơm để sau ngày nghỉ lễ sẽ xức xác Chúa. Bài Thương khó kết thúc như những dấu chấm lửng, dường như muốn cho các độc giả hãy đón đọc ở phần sau, với nhiều hấp dẫn mới. Sau khi cử hành Phụng vụ Lễ Lá, Phụng vụ Tuần Thánh giúp các tín hữu tiếp tục suy tư về những gì mình đã được chứng kiến trong trình thuật hôm nay. Chúng ta sẽ dần dần từng bước cử hành những biến cố quan trọng trong những ngày cuối đời dương thế của Chúa Giê-su. Nói cách khác, trình thuật Thương khó như một dẫn nhập để đưa các tín hữu tới những nghi thức long trọng của Tuần Thánh.

    Nếu đau khổ và vinh quang cùng đan xen trong biến cố khổ nạn của Chúa Giê-su, thì hôm nay, trong cuộc sống của chúng ta, đau khổ và vinh quang cũng vẫn đang cùng nhau hòa quyện. Người tín hữu nhìn thấy qua mầu nhiệm thập giá vinh quang của Thiên Chúa. Vinh quang ấy chiếu tỏa cho mọi thế hệ, để những ai đến với thập giá Chúa Ki-tô, sẽ tìm được bình an và hướng đi cho đời mình. Trong cuộc sống đầy gian nan thử thách, những ai tin cậy phó thác nơi Chúa, sẽ cảm thấy gánh cuộc đời nhẹ nhàng hơn. Chúa Giê-su đã mời gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28). Chúng ta hãy tham dự nghi thức Tuần Thánh với niềm phó thác cậy trông để có thêm nghị lực bước đi trên con đường thập giá cuộc đời.

    +TGM Giuse Vũ Văn Thiên

    Bài viết liên quan