Suy niệm Tin mừng thứ Sáu - Tuần 3 - Thường niên (Mc 4, 26-34)

  • 25/01/2024 20:57
  • “Người kia đã gieo hạt xuống đất, rồi đi ngủ, hạt giống mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết”.

     

    1. Bài đọc năm 1:   Dt 10, 32-39

    “Anh em đừng mất lòng kiên nhẫn”.

    Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.

    Anh em thân mến, anh em hãy nhớ lại những ngày trước, khi anh em vừa lãnh nhận ánh sáng, anh em đã đương đầu với bao nhiêu trận đau khổ lớn lao. Khi thì anh em bị công khai sỉ nhục và hoạn nạn, khi thì anh em phải liên đới với những kẻ chịu những sự đối xử như thế. Vì chưng, anh em đã cùng chịu số phận của những tù nhân, anh em đã vui mừng chấp nhận người ta tước đoạt của cải, vì anh em biết rằng mình có của cải tốt hơn và bền vững. Vậy anh em đừng bỏ mất lòng tin tưởng của anh em, đáng được thưởng công bội hậu. Anh em cần phải kiên nhẫn, để khi làm tròn thánh ý Chúa, anh em được lãnh nhận điều Chúa hứa. Vì chỉ còn một thời gian rất ngắn nữa thôi, Ðấng phải đến sẽ đến, và Người sẽ không trì hoãn. “Còn kẻ công chính của Ta thì sống theo đức tin. Nhưng nếu người đó tháo lui, thì sẽ không làm đẹp lòng Ta”. Còn chúng ta, chúng ta không thuộc hạng người tháo lui mà hư mất, nhưng chúng ta là con cái đức tin để cứu thoát linh hồn chúng ta.

    Ðó là lời Chúa.

     

    Đáp ca:  Tv 36, 3-4. 5-6. 23-24. 39-40

    Ðáp: Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ (c. 39a).

    Xướng:

    1)  Hãy trông cậy Chúa và hãy làm lành, để được cư ngụ trong đất nước, thọ hưởng an ninh. Hãy hân hoan tin tưởng vào Chúa, Người sẽ ban cho sự lòng bạn thỉnh cầu. 

    2)  Bạn hãy phó thác đường lối mình cho Chúa, hãy trông cậy vào Người và để chính Người hành động, Người sẽ làm cho chính nghĩa bạn sáng như bình minh, và quyền lợi bạn tỏ như giờ ngọ.

    3)  Nhờ ơn Chúa mà hiền nhân vững bước, và Người yểm hộ đường lối họ đi. Dầu có ngã, họ sẽ không nằm gục, vì Chúa sẽ nâng đỡ tay họ. 

    4)  Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ, trong cơn khốn khó, Người là chỗ họ dung thân. Chúa bang trợ và giải thoát họ, Người giải thoát và cứu họ khỏi lũ ác nhân, vì họ đã nương tựa vào Người.

     

    2. Bài đọc năm 2:  2 Sm 11, 1-4a. 5-10b. 13-17

    “Ngươi đã khinh dể Ta và đã cướp vợ Uria làm vợ mình”.

    Trích sách Sa-mu-en quyển thứ hai.

    Khi ấy, sang năm mới, là lúc các vua thường ra trận, thì Ða-vít sai Giô-áp, các tôi tớ của vua và toàn dân Ít-ra-en đi tiêu diệt dân Am-mon và bao vây Ráp-ba. Còn Ða-vít thì ở lại Giê-ru-sa-lem. Khi chiến tranh đang diễn tiến, thì một bữa trưa nọ, Ða-vít ra khỏi giường ngủ, đi bách bộ trên sân thượng nhà vua, liền nhìn thấy một phụ nữ đang tắm trên sân thượng nhà bà. Bà rất xinh đẹp. Vậy vua sai dò hỏi người phụ nữ đó là ai. Người ta thưa đó là bà Bát Se-va, con ông Ê-li-am, vợ U-ri-a người Khết. Ða-vít sai cận vệ đi tìm bà. Khi trở về nhà, bà mang thai, nên sai người báo tin cho Ða-vít mà rằng: “Tôi đã có thai”.

    Vậy Ða-vít sai người đến nói với Giô-áp rằng: “Hãy sai tướng U-ri-a người Khết về đây cho trẫm”. Giô-áp sai U-ri-a về gặp Ða-vít, và U-ri-a đến gặp Ða-vít. Ða-vít hỏi thăm tin tức về Giô-áp, quân sĩ, và trận chiến diễn tiến thế nào. Rồi Ða-vít nói cùng U-ri-a: “Ngươi hãy về nhà rửa chân đi”. U-ri-a rời khỏi hoàng cung, và người ta mang cho ông một phần ăn của nhà vua, nhưng U-ri-a cùng các cận vệ nằm ngủ ngay trước cửa nhà vua chứ không về nhà. Người ta đi báo tin cho Ða-vít hay “U-ri-a không đi về nhà”. Ða-vít mời ông ăn uống trước mặt mình và ép uống rượu cho say. Ðến chiều U-ri-a đi ra cùng với các cận vệ ngủ trên chõng, chớ không về nhà. Sáng hôm sau, Ða-vít viết một lá thư gởi cho Giô-áp và sai U-ri-a mang đi. Trong thư, ngài viết như sau: “Hãy đặt U-ri-a vào nơi giao tranh gay cấn nhất, rồi bỏ mặc hắn, để hắn bị đánh cho chết”. Vậy khi Giô-áp bao vây thành, liền cử U-ri-a đến địa điểm mà ông biết có những quân địch mạnh nhất. Quân trong thành kéo ra nghinh chiến với Giô-áp, nhiều quân sĩ của Ða-vít ngã gục, và cả U-ri-a người Khết cũng tử trận.

    Ðó là lời Chúa.

     

    Đáp ca:  Tv 50, 3-4. 5-6a. 6bc-7. 10-11

    Ðáp: Lạy Chúa, xin thương xót chúng con, vì chúng con đã phạm tội (c. 3a).

    Xướng:

    1)  Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xóa tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. 

    2)  Vì sự lỗi con, chính con đã biết, và tội con ở trước mặt con luôn. Con phạm tội phản nghịch cùng một Chúa.

    3)  Con thi hành điều ác trước thiên nhan, hầu tỏ ra Chúa công bình khi phê phán. Này coi, con đã chào đời trong ô uế, và trong tội, mẹ đã hoài thai con. 

    4)  Xin cho con cảm thấy vui mừng hoan hỉ, cho xương bị Chúa đập hớn hở reo lên. Xin ngoảnh mặt đi, đừng nhìn tội lỗi, và tẩy xóa mọi điều gian ác của con.

     

    3.  Tin Mừng:   Mc 4, 26-34

    “Người kia đã gieo hạt xuống đất, rồi đi ngủ, hạt giống mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết”.

    Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Mác-cô.

    Khi ấy, Chúa Giê-su phán cùng dân chúng rằng: “Nước Thiên Chúa giống như người kia đã gieo hạt xuống đất: người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa. Ðất tự nó làm cây lúa mọc lên: trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt. Và khi lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa”.

    Người còn phán: “Chúng ta sẽ lấy gì mà hình dung nước Thiên Chúa? hay dùng dụ ngôn nào mà so sánh nước đó được? Nước đó giống như hạt cải, khi gieo xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được”. Người dùng nhiều dụ ngôn như thế mà rao giảng lời Chúa cho họ, tuỳ sức họ có thể hiểu được, và Người chỉ nói với họ bằng dụ ngôn, nhưng khi ở riêng với các môn đệ, Người giải thích tất cả cho các ông.

    Ðó là lời Chúa.

     

    4. Suy niệm:  Dụ ngôn hạt cải

    1. Hôm nay Đức Giê-su đưa ra hai dụ ngôn để nói về Nước Trời. Chúa ví Nước Trời như hạt giống được gieo xuống đất. Nó tự  mọc lên rồi trổ bông sinh trái, người gieo giống không hay biết gì hết. Còn dụ ngôn hạt cải nói lên sức phát triển mạnh mẽ của nó. Hạt cải là loại hạt nhỏ bé nhất trong các hạt giống nhưng khi nó mọc lên nó sẽ thành cây lớn đến nỗi chim trời có thể đến trú ẩn dưới bóng nó được. Đức Giê-su dùng hai dụ ngôn này để ví với Hội thánh. Lúc đầu chỉ có ít người tin theo, nhưng dần dần, Hội thánh sẽ lan rộng khắp nơi, làm chốn nương tựa cho mọi người được hạnh phúc và được rỗi.

    2. Nước Thiên Chúa được thiết lập giống hệt như tiến trình gieo gặt trọn vẹn: từ hạt giống, hạt nảy sinh thành cây, rồi thành bông trái. Như người dân Pa-lét-ti-na, sau khi gieo hạt giống, họ âm thầm chờ đợi lúa chín để gặt hái, chứ không hề biết hạt giống được gieo xuống đất đã phát triển như thế nào: Đức Giê-su cũng gieo hạt giống Nước Trời nơi tấm lòng con người, cùng với ơn Chúa, Nước đó âm thầm phát triển lan rộng khắp thế giới, tạo nên mùa gặt các linh hồn. Đức Giê-su chỉ đích thân có mặt trong mùa gieo giống và mùa gặt hái. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian chờ đợi, Ngài vẫn tiếp tục hoạt động một cách vô hình, qua Chúa Thánh Thần và Giáo hội. Khi Nước Thiên Chúa đã phát triển đến mức tột độ, Ngài sẽ trở lại trong vinh quang, thu hoạch mùa gặt của Ngài.

    3. Đức Giê-su sánh ví Nước Thiên Chúa như hạt cải. Dụ ngôn này cho thấy vẻ tương phản rõ rệt giữa một bên là sự nhỏ bé, vô nghĩa lúc ban đầu, và bên kia là kết quả cuối cùng lại phong phú không ngờ. Chúng ta nên nhớ: cây cải ở xứ Pa-lét-ti-na khác với cây cải ở xứ ta. Ở Pa-lét-ti-na hạt cải mọc lên thành cây to đến nỗi chim trời có thể đến trú ẩn.

    Ông Thompson trong cuốn “Xứ thánh và Kinh thánh” đã viết: ”Tôi đã thấy cây này trong cánh đồng phì nhiêu ở Akka, nó cao bằng con ngựa và người cưỡi ngựa. Với sự giúp đỡ của người hướng dẫn, tôi đã nhổ được một cây cao hơn 4 mét”.

    Ví dụ này của Đức Giê-su không thổi phồng sự thật chút nào. Người ta vẫn thấy những loại cải hay cây cải to như vậy có bầy chim bu quanh, vì chim thích những hạt cải đen nên chúng đậu trên cây để ăn. Vì thế, Đức Giê-su mới nói rằng Nước Ngài giống như hạt cải lớn lên thành cây.

    4. Dụ ngôn hạt cải là dụ ngôn cuối cùng về Nước Thiên Chúa. Cũng như các dụ ngôn trước, dụ ngôn này được rút ra từ đời sống thôn dã. Nó đưa ra một nét tương phản hấp dẫn: hạt cải nhỏ xíu trở thành một cây to lớn.

    Nước Thiên Chúa cũng mang nơi mình một nghịch lý tương tự: Dưới cái nhìn của Mác-cô, dụ ngôn hạt cải chứa đựng cách diễn tả tuyệt vời về bí mật Mê-si-a.  Cho đến lúc này, hành vi của Đức Giê-su có thể bị coi là vô nghĩa và Nước Thiên Chúa vẫn chỉ là một thực tế khiêm tốn. Dù vậy, các dân ngoại đang nhìn thấy sự tăng trưởng dị thường của nó như các Ki-tô hữu ở Rô-ma đã kinh nghiệm được điều này. Chính Giáo hội tiên khởi, dù yếu đuối, vẫn ý thức được mình  đang tham dự vào sự thành công của một công trình đã sẵn tiềm tàng nguồn sinh lực vô biên, công trình này sẽ đạt tới mức hoàn vũ vào cuối giai đoạn phát triển của nó.

    5. Qua bài Tin Mừng này, chúng ta hãy tin tưởng vào sức phát triển của Nước Thiên Chúa. Nước Chúa vẫn âm thầm phát triển, nhưng Chúa cũng cần chúng ta góp phần vào, dù ít dù nhiều như thánh Phao-lô đã nói: ”Tôi trồng, A-pô-lô tưới, nhưng chính Thiên Chúa cho mọc lên. Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả. Nhưng Thiên Chúa Đấng làm cho lớn lên mới đáng kể” (1Cr 3,6-7). Nếu chúng ta biết nghĩ như thánh Phao-lô thì chúng ta không còn ngại gieo hạt giống Nước Chúa, cũng không vội ngã lòng khi thấy công gieo vãi của mình chưa sinh kết quả.

    6. Truyện: Giải đáp ba thắc mắc.

    Một hôm, cha Petitjean đến giảng đạo tại Nagasaki cho một số đông người Nhật. Nghĩ rằng họ đều là người bên lương nên sau bài giảng, ngài tươi cười hỏi:

    – Anh em có thắc mắc gì không?

    Một người đưa tay đặt câu hỏi:

    – Chúng tôi muốn được hỏi ông ba điều, yêu cầu ông trả lời có hay không? Câu hỏi thứ nhất, các ông có tin Đức Mẹ Đồng trinh không?

    – Có.

    Câu hỏi thứ hai : các ông có vâng lời và thông hiệp với Đức Thánh Cha không?

    – Có.

    Câu hỏi thứ ba : Là Linh mục, các ông có giữ mình đồng trinh và sống độc thân không?

    – Có.

    – Vậy thì mấy trăm người chúng tôi đây với ông là đồng đạo. Chúng tôi là người Công giáo cả đây.

    Cha Petitjean bàng hoàng như từ cung trăng rơi xuống. Cha con âu yếm ôm cổ nhau. Nhà truyền giáo hỏi:

    Bấy lâu nay, có ai giảng dạy cho các anh không?

    – Thưa cha, không có ai suốt hai thế kỷ rồi  ! Đó là nhờ ông bà tổ tiên chúng con truyền lại, rồi chúng con âm thầm cầu nguyện, dạy giáo lý cho con em, đoàn kết đùm bọc nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ông bà chúng con trước khi chết có nhắn nhủ : Sau này có ai đến giảng đạo hãy cảnh giác, phải lấy ba tiêu chuẩn ấy mà nhận xem họ có phải là các cha đích thực, là người của Hội thánh sai đến.

    Giáo hội Nhật Bản đã tái sinh.

    Lm. Giu-se Đinh Lập Liễm

    Nguồn tin:  https://www.tonggiaophanhanoi.org/

    Bài viết liên quan