LIÊN HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC Á CHÂU
TÀI LIỆU CUỐI CÙNG
ĐẠI HỘI CẤP CHÂU LỤC CỦA GIÁO HỘI Á CHÂU
VỀ TÍNH HIỆP HÀNH
16.03.2023
Đức Hồng Y Charles Maung Bo, SDB (Myanmar), Chủ tịch FABC
Đức TGM Tarcisius Isao Kikuchi, SVD (Nhật Bản) Tổng Thư Ký FABC
Lm. William La Rousse (FABC-Thái Lan)
Lm. Joseph Philip Gonsalves (Ấn Độ)
Lm. Clarence Devadass (Malaysia).
Bà Momoko Nishimura, SEMD (Nhật Bản)
Lm. Enrico Emmanuel A. Ayo (Philippines)
Cô Estela P. Padilla (Philippines)
Ông Pablito A. Baybado Jr. (Philippines)
Lm. Anthony Corcoran, SJ (Kyrgyzstan)
Lm. Hai-Tinh Nguyen, SJ (Việt Nam)
1. Châu Á, nơi có nền văn hóa, tôn giáo, ngôn ngữ và sắc tộc đa dạng, là Châu lục lớn nhất thế giới về cả diện tích địa lý và dân số. Châu Á có diện tích 44,6 triệu km2, chiếm khoảng 30% tổng diện tích trái đất. Châu Á là nơi sinh sống của khoảng 4,6 tỷ người với hơn 2.300 ngôn ngữ được sử dụng trên khắp Châu Á. Châu Á cũng được coi là nơi sinh và cái nôi của các tôn giáo lớn trên thế giới như Ấn giáo, Hồi giáo, Kitô giáo, Phật giáo, Jain giáo, Sikh giáo, Lão giáo, Khổng giáo, và một số tôn giáo khác. Hồi giáo là tôn giáo nổi bật nhất với 1,2 tỷ tín đồ, tiếp theo là Ấn giáo với 900 triệu người.
Dân số (Châu Á) |
Tín hữu Công giáo (Châu Á) |
Tỉ lệ (%) |
Linh mục |
Tu sĩ |
Thừa sai và Giáo lý viên giáo dân |
4.6 tỉ* |
150 triệu* |
3.31% |
70.254 |
187.021 |
432.035 |
Nguồn: Thống kê Giáo hội Công giáo năm 2021 do Agenzia Fides công bố vào Chúa nhật Thế giới Truyền giáo năm 2022
(*) Được làm tròn đến số nguyên gần nhất.
2. Mặc dù các hệ thống tín ngưỡng, giá trị và biểu tượng khác nhau từ nơi này sang nơi khác, nhưng tính liên kết của cộng đồng nhân loại đã đưa các dân tộc Á châu xích lại gần nhau. Giá trị Á châu về mối tương quan (với Thiên Chúa, với chính mình, với người khác, và với vũ trụ) mang theo sự hiệp nhất của gia đình nhân loại và của các dân tộc Châu Á.
3. Theo Báo cáo của Ngân hàng Thế giới, châu Á có sự phân biệt mơ hồ khi một đàng có nhiều tỷ phú nhất thế giới, trong khi đàng khác, lại có 320 triệu người cực kỳ nghèo, sống dưới mức nghèo khổ. Đại dịch gần đây đã làm trầm trọng thêm sự bất bình đẳng và phân chia kinh tế giữa những người có của cải và những người không có.
4. Về mặt chính trị cũng vậy, chúng ta thấy các hệ thống cai trị đa dạng bao gồm dân chủ nghị viện, chế độ độc tài quân phiệt, nhà cầm quyền cộng sản, chế độ quân chủ lập hiến và các hình thức chính phủ tổng thống.
5. Cho dù có những lợi ích mà sự hiệp nhất và đa dạng mang lại, Châu Á cũng bị vây bủa bởi nhiều thách thức ảnh hưởng trực tiếp đến Giáo hội và đời sống của người dân Châu Á. Một số thách thức là tình trạng nghèo đói lan rộng khắp châu Á, mối đe dọa sinh thái đã gây ra sự mất cân bằng trong cuộc sống của người dân, những thách thức của nạn tham nhũng có hệ thống, làn sóng di cư kinh tế để tìm kiếm cuộc sống tốt đẹp hơn, sự bất ổn chính trị gây ra sự gián đoạn nội bộ đối với hòa bình và hòa hợp, v.v.. Tất cả những điều này đều có tác động trực tiếp đến Giáo hội khi Giáo hội tìm cách vươn tới mọi dân tộc.
6. Trong khi Kitô giáo vẫn còn là một thiểu số rất nhỏ ở hầu hết các vùng của Châu Á, sự sống động và phong phú của các văn hóa riêng lẻ mang lại niềm vui cho đời sống của Giáo hội. Lục địa châu Á rộng lớn và được chia thành bốn khu vực dễ nhận biết là Trung, Đông, Nam và Đông Nam Á.
7. Được thiết lập trên phẩm giá chung của phép Rửa tội, tiến trình Hiệp hành này thực sự là một biểu hiện của Giáo hội hoàn vũ và các Giáo hội địa phương cùng nhau bước đi như là một. Những tác động tích cực của việc đưa mọi người từ mọi tầng lớp xã hội, cả trong và ngoài Giáo hội vào một tiến trình cầu nguyện với nhau, lắng nghe nhau và phân định tiếng nói của Chúa Thánh Thần mang lại cho họ một trải nghiệm mới về sức sống và động lực cho đời sống của Giáo hội.
8. Trong số 4 tỷ người sống ở Châu Á, Giáo hội Công giáo chỉ chiếm 3,31% tổng dân số, nhưng lại đóng góp rất nhiều cho các lĩnh vực giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội và tiếp cận với người nghèo và các nhóm bị gạt ra bên lề xã hội.
9. Trong một xã hội Á châu đa nguyên, Giáo hội Công giáo tiếp tục truyền bá sứ điệp yêu thương bằng việc trao quyền cho những người bị gạt ra bên lề thông qua giáo dục chất lượng và đưa họ hòa nhập vào xu thế chủ đạo của xã hội.
10. Hàng ngàn linh mục, tu sĩ nam nữ, cùng với các thừa sai giáo dân và giáo lý viên tham gia vào việc đào tạo đức tin và phục vụ các nhu cầu tâm linh và mục vụ của cộng đồng Công giáo trên khắp Châu Á.
11. Lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô cho Đại hội Thường kỳ lần thứ XVI của Thượng Hội đồng Giám mục được đưa ra trong khi Liên Hội đồng Giám mục Á châu (FABC) đang chuẩn bị cho một Đại hội - theo khuôn mẫu của Hội đồng Giám mục Châu Mỹ Latinh (Consejo Episcopal Latinoamericano y Caribeño - CELAM) - để nêu bật sự đóng góp của Giáo hội tại Châu Á cho Giáo hội rộng lớn hơn. Với việc hướng tới kỷ niệm 50 năm Hội nghị Giám mục Á châu được tổ chức trong chuyến tông du Manila của Thánh Giáo hoàng Phaolô VI vào năm 1970, Đại hội thoạt đầu được ấn định vào tháng 11. 2020. Tuy nhiên, do xảy ra đại dịch coronavirus, FABC đã phải hoãn Đại hội đến tháng 10. 2022.
12. Sự trùng hợp ngẫu nhiên của cả hai hoạt động được coi là do sự quan phòng: tiến trình của Đại hội toàn thể đã làm nổi bật tình hình hiện tại và những thách đố của các dân tộc Châu Á cũng như sứ mạng đương thời của các Giáo hội ở Châu Á, trong khi tiến trình Hiệp hành cung cấp phương pháp luận và đôi khi thậm chí tạo ra các cơ chế lắng nghe để tiến hành các cuộc thỉnh vấn của Đại hội.
13. Thành quả của Đại hội toàn thể sẽ được thể hiện rõ nhất trong phần “Khoảng cách” dưới đây. Những điều này đại diện cho các mối quan tâm và ưu tiên đã được công nhận trong Đại hội nhưng đã không được đề cập cách rộng rãi trong các phản hồi của Châu Á đối với Tài liệu cho Giai đoạn Châu lục.
14. Như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhận xét khi khai mạc Đại hội toàn thể FABC, Đức Phaolô VI đã gặp tại Châu Á một Giáo hội của người nghèo, một Giáo hội của người trẻ và một Giáo hội đối thoại. Năm mươi năm sau, Giáo hội của người nghèo là một Giáo hội chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta, Giáo hội của người trẻ hiện đang định hướng và loan báo Tin Mừng cho lục địa kỹ thuật số, và Giáo hội đối thoại được kêu gọi xây dựng những nhịp cầu giữa các nền văn hóa, các tôn giáo, và các dân tộc.
15. Liên Hội đồng Giám mục Á châu (FABC) bao gồm 17 Hội đồng Giám mục[1], 2 Thượng hội đồng các Giáo hội Đông phương[2], và 3 Thành viên liên kết[3]. Có 29 lãnh thổ được bao gồm trong tư cách thành viên của FABC[4]. Có hy vọng được chào đón Giáo hội ở Trung Quốc đại lục với tư cách thành viên FABC.
16. Khi Đại hội toàn thể kết thúc, Tài liệu cho Giai đoạn Châu lục (TLCL) đã được phát hành. Các bản sao đã được in và sẵn sàng vào ngày 28. 10 và được phân phát cho các tham dự viên vào ngày 29. 10. 2022. Nhóm Chuyên Trách Á Châu được thành lập và được Ủy ban Trung ương thông qua tại một cuộc họp trong Đại hội. Nhóm Chuyên Trách sẽ điều phối toàn bộ tiến trình Thượng Hội đồng Châu Á.
17. Nhóm Chuyên Trách đã họp qua Zoom vào ngày mồng 7. 11. 2022. Một lá thư đã được gửi đi mô tả tiến trình cùng với TLCL và các thông tin khác từ Ban Thư ký Thượng Hội đồng về phương pháp cho Giai đoạn Châu lục bao gồm cả Câu hỏi thường gặp. Ngày diễn ra Đại hội Thượng hội đồng cấp Châu lục của Giáo hội Á châu được ấn định vào ngày 24 – 26. 02. 2023.
18. Tất cả 22 thành viên FABC được yêu cầu trả lời trong 10 trang cho TLCL vào hoặc trước ngày 15. 01. 2023. Sau đó, Nhóm Chuyên Trách sẽ gửi cho các thành viên ‘Đề cương dự thảo’ của Tài liệu cuối cùng Á châu vào hoặc trước ngày 15. 02. 2023. 21 trong số 22 bản trả lời đã được nhận. ‘Đề cương dự thảo’ đã được gửi đi như dự kiến vào ngày 15. 02. 2023.
19. Hầu hết đều nhận thấy rằng có rất ít thời gian để làm bản trả lời vì trùng với dịp mùa Vọng và Lễ Giáng Sinh. Phải mất thời gian để có những bản dịch cần thiết do sự đa dạng của các ngôn ngữ ở Châu Á. Mỗi Hội đồng đã chọn cách thế riêng để làm bản trả lời cho TLCL. Điều này bao gồm việc sử dụng các nhóm Hiệp hành hiện có ở cấp giáo hạt, giáo phận và quốc gia. Ở một số nơi đã tổ chức họp trực tuyến. Các cuộc họp thuộc nhóm nhỏ đã được tận dụng, các nhóm tập trung, các hội đồng nếu có thể và các hội đồng giám mục và linh mục.
20. Giai đoạn thứ hai là viết Đề cương dự thảo tóm tắt các báo cáo của các Hội đồng Giám mục. Giai đoạn này được tổ chức tại Trung tâm Chăm sóc Mục vụ Camillian, Bangkok, Thái Lan từ ngày 31. 01 đến ngày 04. 02. 2023. Ủy ban Trung ương FABC đã chỉ định Nhóm Chuyên Trách Á châu làm Ban Phân định và soạn thảo và hoàn thành nhiệm vụ soạn bản Đề cương dự thảo. Ban này được mở rộng và bao gồm 9 người: 2 giáo dân (1 nữ và 1 nam), 1 nữ tu và 6 linh mục, với Tổng thư ký FABC giám sát tiến trình, đại diện cho 4 khu vực của FABC là Nam Á, Đông Nam Á, Đông Á và Trung Á.
21. Trong 4 ngày, Ban Phân định và Soạn thảo đã dành toàn bộ thời gian để cầu nguyện, chia sẻ và đối thoại, lắng nghe, phân định và soạn Đề cương dự thảo trong bầu khí và tinh thần Hiệp hành. Ban được chia thành 3 nhóm, mỗi nhóm đọc báo cáo của 7 quốc gia. Mỗi nhóm phân định các chủ đề, bối cảnh và đặc thù chung khi trả lời 3 câu hỏi từ TLCL, đó là Những Cộng hưởng, Những Căng thẳng và Những Ưu tiên bằng phương pháp đối thoại tâm linh.
22. Ban Phân định và Soạn thảo đã tham gia một phiên họp toàn thể để suy tư và thảo luận sâu hơn về những nhận thức của mình và viết Đề cương dự thảo. Sau đó, ban lại cầu nguyện, suy tư và phân định khi tiếp tục chỉnh sửa, hoàn thiện và khai triển Đề cương dự thảo. Tài liệu Đề cương dự thảo đã được gửi đến tất cả các Hội đồng Giám mục và các Thành viên liên kết vào ngày 15. 02. 2023.
23. Ban Phân định và Soạn thảo cũng hoạch định chương trình cho Đại hội cấp Châu lục của Giáo hội Á châu. Trải nghiệm trong 4 ngày đã góp phần phong phú thêm rất nhiều và Ban đã đề xuất tiến trình phân định tương tự trong Đại hội Á châu. Chương trình được đệ trình lên Ban Lãnh Đạo Trung Ương FABC để xin ý kiến và phê duyệt.
24. Theo phương thức được phác thảo trong Đại hội toàn thể FABC 50, mỗi Hội đồng Giám mục được yêu cầu cử 3 đại biểu và mỗi Thành viên liên kết có thể cử 2 đại biểu tham dự Đại hội cấp Châu lục của Á châu, được tổ chức từ ngày 24 – 26. 02. 2023. Phương thức cũng xác định thêm rằng các phái đoàn này nên bao gồm Giám mục chủ tịch hoặc đại diện của ngài và hai người khác được chọn dựa trên TLCL số 108 và 109. Các đại biểu đã được gửi trước thông tin về Đại hội với những hướng dẫn chuẩn bị cho sự kiện này.
25. Vào ngày 23. 02. 2023, các tham dự viên đã đến Trung tâm Huấn luyện Mục vụ Baan Phu Waan, Bangkok, Thái Lan. Các đại biểu từ 17 Hội đồng Giám mục, 2 Thượng hội đồng của Giáo hội Nghi thức Đông phương, và 3 Thành viên liên kết của FABC đã cùng tham gia với các thành viên của ban Tổng thư ký Thượng Hội đồng, Tổng Tường trình viên của Đại hội đồng Thường kỳ lần thứ XVI của Thượng Hội đồng Giám mục, và một số khách mời khác. Số tham dự viên người Á Châu là: 6 Hồng Y, 5 Tổng Giám Mục, 18 Giám Mục, 28 linh mục, 5 nữ tu, 7 giáo dân nam và 11 giáo dân nữ.
26. Trước khi bắt đầu các phiên họp, các tham dự viên đã được cung cấp các tài liệu sau đây như một nguồn tài liệu để phân tích và thảo luận: Tài liệu về Giai đoạn Châu lục (TLCL), một bản sao Đề cương dự thảo của Tài liệu Cuối cùng (Final Document) do Ban phân định và Soạn thảo chuẩn bị, và tuyển tập Giáo lý về Phân định của Đức Thánh Cha Phanxicô.
27. Trong nỗ lực soạn thảo Đề cương dự thảo của Tài liệu cuối cùng sẽ được đệ trình lên Ủy ban Trung ương FABC sau khi cơ quan này “xác nhận và phê duyệt”, sau đó sẽ được chuyển đến Tổng thư ký, Đại hội cấp Châu lục của Á châu bao gồm những yếu tố sau: đối thoại tâm linh; dữ liệu từ các bài thuyết trình vắn tắt; các giờ cầu nguyện chung và riêng; thảo luận chung cũng như nhóm nhỏ, xem lại và điều chỉnh lại các phiên bản của bản dự thảo (được kiến tạo bằng việc sử dụng bản đề cương do Ban phân định và Soạn thảo đề xuất); và một diễn đàn trong thời gian tiến hành các phiên họp toàn thể để nhận được sự can thiệp từ các tham dự viên.
28. Các nhóm được sắp xếp có chủ ý để bao gồm sự kết hợp của nhiều người từ các hội đồng và các bậc sống khác nhau (tức là giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân, v.v.). Công nghệ Trí tuệ nhân tạo (AI) đã hỗ trợ trong quá trình tổng hợp thông tin đầu vào từ các cuộc họp nhóm.
29. Câu trả lời của các nhóm đối với các phiên phân định xem xét sâu hơn các phần khác nhau của tài liệu dự thảo được tích hợp dần dần từng ngày vào bản thảo làm việc khi Ban phân định và soạn thảo họp vào cuối mỗi ngày.
Ngoài ra, Ban còn bổ sung thêm 2 bước để các tham dự viên đóng góp vào việc soạn bản thảo: trước hết, mang bản thảo đã chỉnh sửa trở lại cho tất cả mọi người trong các nhóm nhỏ, để xem họ có muốn sửa đổi và muốn bổ sung điều gì nữa không. Thứ đến, sau khi tổng hợp các sửa đổi và bổ sung từ các nhóm nhỏ, Ban phân định và soạn thảo lại yêu cầu tất cả tham dự viên đọc toàn bộ bản văn và suy tư theo nhóm về những gì Ban đã bỏ sót một cách đáng kể.
30. Các phiên làm việc kết thúc với sự khẳng định nhất trí cao của các nhóm đại biểu về Đề cương dự thảo. Sau đó, các thành viên Đại hội đã thảo luận hai câu hỏi sau: (1) Những cấu trúc mang tính giáo hội nào cần được thay đổi hoặc thiết lập để tăng cường tính hiệp hành của Giáo hội ở Châu Á? (2) Bạn muốn thấy điều gì diễn ra giữa phiên họp tháng 10. 2023 và phiên họp tháng 10. 2024 của Thượng hội đồng về Hiệp hành?
31. Đức Hồng Y Charles Bo, chủ tịch của FABC, đã chủ tọa Nghi thức bế mạc Đại hội, trong đó các đại diện của Đại hội đã trình bày một ‘Bản thảo tạm thời’ của Tài liệu cuối cùng từ Đại hội cấp Châu lục của Á châu.
32. Ban phân định và Soạn thảo được giao nhiệm vụ hoàn thiện tài liệu cuối cùng. Ban đã họp từ ngày 27 – 28 tháng 2. 2023 để đưa vào các sửa đổi theo đề xuất của các đại biểu của Đại hội Á châu. Ban cũng đã tham gia tích cực vào Đại hội bằng việc tham dự vào các nhóm trong các cuộc thảo luận, đối thoại tâm linh và phân định cộng đoàn. Việc lắng nghe tất cả và cảm nhận nhịp đập của các tham dự viên đã hỗ trợ tiến trình phân định trong việc soạn thảo Tài liệu Cuối cùng.
33. Việc chỉnh sửa tài liệu lần cuối cùng được thực hiện trên tinh thần soạn thảo chung, tình đồng đội nồng ấm, và sự phân định cầu nguyện. Sau đó, Ban đã chuyển bản văn tới Ủy ban Trung ương FABC để được “xác nhận và phê duyệt”.
34. Tài liệu cuối cùng của Đại hội cấp Châu lục của Á châu về Hiệp hành đã được trình bày cho Ủy ban Trung ương FABC tại cuộc họp trực tuyến vào ngày 03. 3. 2023. Cuộc họp dành cho các Giám mục-Chủ tịch của các Hội đồng Giám mục để 'xác nhận và phê duyệt' Tài liệu cuối cùng của Đại hội cấp Châu lục của Á châu đảm bảo rằng đây là thành quả của một lộ trình Hiệp hành đích thực, bảo vệ sự hiệp nhất của Giáo hội, vốn không bao giờ có thể suy thoái thành sự đồng nhất hoặc phân cực.
35. Sau khi cân nhắc bản dự thảo tài liệu cuối cùng, Ủy ban Trung ương FABC, vào ngày 03. 3. 2023, đã 'phê duyệt và xác nhận' tài liệu cuối cùng với một số thay đổi rất nhỏ được đưa vào cho thấy tài liệu cần được chỉnh sửa thêm và sau đó được gửi tới Ban Thư Ký Thượng Hội Đồng như là Tài liệu Cuối Cùng của Đại hội cấp Châu lục của Giáo hội Á châu về Thượng Hội Đồng.
36. Bất chấp những thách đố, tiến trình Hiệp hành không phải là một tiến trình dân chủ nhưng là thời điểm của ân sủng và sự chữa lành đối với Giáo hội. Hình ảnh ‘Giáo hội như là chiếc lều’ cho thấy đây là một nơi ẩn náu có thể mở rộng cho tất cả mọi người trong tinh thần dung nạp. Đồng thời cũng diễn tả rằng Thiên Chúa có thể dựng lều của Ngài ở bất cứ nơi nào Thần Khí của Thiên Chúa thổi đến, kể cả những nơi có bạo lực, bất an và đau khổ.
37. Quan trọng nhất là trong lều, có chỗ cho tất cả mọi người, không ai bị loại trừ vì đây là nhà của mọi người. Trong tiến trình này, những người trước đây cảm thấy bị “bỏ rơi” giờ đã nhận ra rằng họ có một mái ấm trong căn lều này, một không gian thánh thiêng và an toàn. Hầu hết những người được hỏi đều phản ứng tích cực với hình ảnh của chiếc lều.
38. Hình ảnh chiếc lều cũng nhắc nhở chúng ta rằng Chúa Giêsu đã cắm lều giữa chúng ta qua cuộc nhập thể và vì thế lều cũng là nơi gặp gỡ Thiên Chúa và gặp gỡ nhau. Căn lều, giờ đây được xem như ngôi nhà chung, cũng đã khơi dậy cảm giác thân thuộc và chia sẻ trong Phép Rửa chung. Tiến trình Hiệp hành đã mang lại một nhận thức lớn hơn về tầm quan trọng của việc cùng nhau bước đi trong Giáo hội như một sự hiệp thông của các cộng đoàn đối với sự phát triển hữu cơ của Giáo hội.
39. Việc thỉnh vấn cấp Châu lục ở các quốc gia tương ứng diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau. Một số quốc gia có thể thu hút nhiều người từ các tầng lớp xã hội khác nhau trong khi những quốc gia khác chỉ có thể tập hợp những nhóm nhỏ hơn. Như đã đề cập trên đây, những thách đố về thời gian và ngôn ngữ đã trở thành một “trở ngại” đối với một số quốc gia. Tuy nhiên, những người tham gia vào tiến trình suy tư này về TLCL đã đóng góp có tính xây dựng thông qua tinh thần cầu nguyện và phân định để Giáo Hội ngày càng tốt đẹp hơn.
40. Sự tham gia của một số lượng đông người như vậy vào tiến trình Hiệp hành đã cho thấy một tình yêu sâu đậm đối với Giáo hội bất chấp những thiếu sót và khuyết điểm của Giáo hội với tư cách là một thể chế.
41. Việc không thể dịch TLCL sang nhiều ngôn ngữ bản địa là một hạn chế khác mà các Giáo hội ở Châu Á gặp phải. Tuy nhiên, Đại hội toàn thể FABC 50 được tổ chức vào tháng 10. 2022 thực sự là một phúc lành trong việc chuẩn bị cho giai đoạn này của tiến trình Hiệp hành.
42. Nhiều cuộc đối thoại được tổ chức trước và trong Đại hội FABC đã cung cấp những chỉ dẫn liên quan đến bối cảnh của Giáo hội và Châu Á. Khi “lắng nghe” các bản báo cáo, người ta nhận thấy rằng ở phía chân trời, vẫn còn cảm thức về niềm hy vọng và niềm vui để Giáo hội tiến bước vì tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân Ngài. Chúng ta xác tín rằng Chúa Thánh Thần không dừng lại cũng không thất bại trong việc truyền cảm hứng cho dân Chúa bước đi theo hướng của sự hoán cải cá nhân, cộng đoàn và cơ cấu.
43. Chúng ta cũng thừa nhận rằng tiến trình diễn ra các cuộc đối thoại Hiệp hành theo yêu cầu đôi khi rất đau đớn và bất an, đồng thời khiến chúng ta dễ bị xúc phạm lẫn nhau.
44. TLCL, một cách súc tích, đã có thể nắm bắt được những hy vọng, nguyện vọng, nỗi cô độc, và thách đố của người dân theo cách mở ra cánh cửa cho một cuộc canh tân lớn hơn trong đời sống của Giáo hội. Lời mời gọi lắng nghe dân chúng từ mọi tầng lớp xã hội thể hiện sự cởi mở với nhau và tinh thần đối thoại tạo điều kiện để cùng nhau tiến bước như một thể hiệp nhất: “Việc tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ và đối thoại này là ý nghĩa của tiến trình Thượng Hội đồng” (TLCL, 6).
45. Điều mà TLCL đã làm được là trở thành chất xúc tác cho những cuộc đối thoại tâm linh sâu sắc hơn. Tại nhiều nơi, TLCL thực sự được trải nghiệm như một khoảnh khắc của tính Hiệp hành sống động trong Giáo hội thông qua một tiến trình chia sẻ căn tính và trách nhiệm chung.
46. Cảm thức chung về mối quan tâm đối với Giáo hội như được thể hiện trong sự tham gia của tất cả mọi người vào tiến trình này phản ánh một khuynh hướng tự nhiên hoặc hữu cơ đối với tính Hiệp hành đích thực. Tại một số quốc gia, “tiến trình lắng nghe” tự nó không phải là điều gì mới mẻ vì đã có sẵn những cơ chế để thực hiện các kế hoạch mục vụ của Giáo hội và cộng đồng địa phương ở nhiều cấp độ khác nhau, mang lại sức mạnh tổng hợp và hội tụ với tinh thần Hiệp hành.
47. Chính FABC đã và đang đóng một vai trò quan trọng trong việc sống tính Hiệp hành giữa các Hội đồng Giám mục. Điều này thực sự nắm bắt được cảm thức cùng nhau bước đi với tư cách là các chi thể của Nhiệm thể Đức Kitô hướng tới triều đại Thiên Chúa và trong tiến trình đó, chúng ta có thể mở mang kinh nghiệm và nới rộng lều.
48. Xem xét những nhận xét tổng quát này không chỉ cung cấp địa điểm cho Giáo hội ở Châu Á để suy tư về TLCL, chúng ta cũng thừa nhận sự đa dạng rộng lớn về quan điểm và trải nghiệm trên khắp Châu Á đã khiến cho việc tổng hợp mọi cơ hội và thách thức đơn lẻ của các quốc gia khác nhau là một thách đố. Được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, các đoạn văn sau đây cung cấp những hiểu biết sâu sắc về những cộng hưởng, những căng thẳng và những ưu tiên được các Giáo hội ở Châu Á trình bày rõ ràng.
49. Ban Phân định và Soạn thảo cũng mạn phép xác định một số khoảng trống (lacuna) mà chúng tôi cảm thấy chưa có hoặc chưa được đề cập đầy đủ trong các bản báo cáo do các Hội đồng Giám mục gửi tới nhưng lại là những điểm thảo luận chính tại Đại hội toàn thể FABC 50. Chúng tôi cầu nguyện và hy vọng rằng những hiểu biết sâu sắc sau đây sẽ trung thành với tâm trí và trái tim của các quá trình tương ứng được thực hiện bởi các quốc gia ở Châu Á.
Sau khi đọc và cầu nguyện với TLCL, những trực giác nào cộng hưởng mạnh mẽ nhất với những trải nghiệm sống và thực tế của Giáo hội ở Châu lục của các bạn? Những trải nghiệm nào là mới, hoặc soi sáng cho các bạn?
50. Các cộng hưởng mà các Giáo Hội tại Châu Á cảm thức được khi suy tư về TLCL được nhấn mạnh bởi một thực tế, như đã được đề cập trước đó, đó là có một tình yêu sâu xa đối với Giáo Hội. Trong tình yêu sâu xa dành cho Giáo hội đó ẩn chứa những cảm xúc khác nhau như niềm vui, nỗi buồn, dễ bị tổn thương và thương tích.
51. Bất chấp sự hỗn loạn cảm xúc này và sự đa dạng của châu Á bao gồm sắc tộc, chủng tộc, văn hóa, ngôn ngữ và tôn giáo, tinh thần Hiệp hành như được Giáo hội kêu gọi, thách thức chúng ta (Giáo hội) can đảm “bước đi cùng nhau” dẫu có một số phản đối trong Giáo hội, sự thiếu trân trọng đối với linh đạo phong phú ở Châu Á, và cũng như việc đánh mất cảm thức về tội lỗi.
52. Mặc dù tiến trình này đã được đón nhận và tạo điều kiện thuận lợi trên khắp các quốc gia ở Châu Á, nhưng một số báo cáo đề cập rằng quá trình thỉnh ý và lắng nghe do hành trình Thượng hội đồng mang lại có thể gây ra một số bất mãn và thất vọng do thiếu sự giải thích rõ ràng và sự chấp nhận mục tiêu của việc quy tụ và lắng nghe. Cám dỗ khi tham gia vào tiến trình này có thể được mô tả như là một nỗ lực chính trị hoặc thậm chí mang tính ý thức hệ (tức là, giống như một diễn đàn dành cho thảo luận “kiểu nghị viện”) hơn là một nỗ lực Hiệp hành thực sự từ nhãn quan Công giáo-Kitô giáo. Một số tín hữu tỏ ra hoài nghi về mục đích và kết quả triển vọng của một tiến trình Hiệp hành như vậy.
53. Một số giáo phận duy trì sự hoài nghi kéo dài này liệu tiếng nói của những người sống trong môi trường thiểu số và cộng đồng Kitô hữu truyền thống có ảnh hưởng như nhau đối với tiến trình và thậm chí đến kết quả của Thượng hội đồng hay không. Người ta cũng ghi nhận rằng lắng nghe là một nhiệm vụ khó khăn vì nhiều người thích được khen hơn là bị chỉ trích hoặc phê bình. Những người dám lên tiếng đôi khi bị một số bộ phận trong cộng đồng coi là những kẻ chống đối vì những bình luận và quan điểm của họ bị coi là không theo tư tưởng chính thống hoặc có thể tác động tiêu cực đến toàn thể Giáo hội.
54. Cần phải lưu ý rằng tiến trình Hiệp hành mà Giáo hội hoàn vũ kêu gọi vừa là một trải nghiệm thiêng liêng vừa là một hành trình thiêng liêng. Vì lý do này, cần phải gạt bỏ cái tôi của mình sang một bên, vét rỗng chính mình và lắng nghe Thiên Chúa để chúng ta không ngừng được đổi mới dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và tiến sâu hơn trong tinh thần Hiệp hành.
55. Động lực của việc lắng nghe ở mức độ rộng rãi nhất có thể, vốn là điều ăn sâu vào tiến trình Hiệp hành, thực sự đã thúc đẩy Giáo hội lắng nghe chăm chú hơn và phân định một cách khôn ngoan nơi Chúa Thánh Thần đang dẫn chúng ta đến việc đón nhận và trở thành một Giáo hội Hiệp hành hơn.
56. Cuộc hành trình mà chúng ta đã bắt đầu này giúp chúng ta nhận ra bản chất thực sự của Giáo hội và khả năng nhìn thấy tình hình của Giáo hội. Trải nghiệm về niềm vui được thăng hoa, bởi vì tiến trình Thượng Hội đồng chắc chắn là một nơi của ân sủng, sự gặp gỡ, và biến hình.
57. Tiến trình bước đi cùng nhau giúp các Giáo hội địa phương nhận thức rõ hơn về những bối cảnh độc đáo và văn hóa phong phú của họ trên khắp Châu Á, bao gồm cả văn hóa của các cộng đồng bản địa vốn thường bị xem thường và lãng quên. Sự phong phú này cần được nuôi dưỡng qua sự hiệp thông và đối thoại như là một trải nghiệm của việc bước đi cùng nhau.
58. Là người Công giáo ở Châu Á sống trong sự đa dạng, chúng ta tìm cách nâng cao chất lượng tình bằng hữu với nhau bằng cách lắng nghe, tôn trọng và quan tâm đến nhau, để chúng ta có thể trở thành 'người mẹ tốt' và là tấm gương mang hòa bình và sự hiệp nhất đến với thế giới. Việc đào tạo đức tin được đặt nền tảng trên lời hằng sống của Thiên Chúa, là nền tảng cho linh đạo Hiệp hành.
59. Cùng nhau bước đi, lộ trình Hiệp hành đã quy tụ chúng ta tại bàn tiệc của Chúa, để nhờ Người, với Người và trong Người, chúng ta nhận ra khuynh hướng tự nhiên và hữu cơ của mình đối với tính Hiệp hành, đồng thời được truyền cảm hứng và củng cố để đi qua và khám phá những con đường mới cho Giáo hội ở Châu Á.
60. Thật phấn khởi khi đọc đi đọc lại nhiều lần về tình yêu sâu xa dành cho Giáo hội từ rất nhiều Giáo hội địa phương trên khắp thế giới. Tình yêu và sự cam kết này đối với đức tin vang vọng khắp TLCL và chắc chắn phản ánh cảm thức gần như phổ quát của người Công giáo trên khắp thế giới bày tỏ.
61. Trải nghiệm cùng nhau bước đi cũng bị làm hư hại bởi những mối đe dọa bên ngoài khiến cho việc sống đức tin trở nên khó khăn. Người ta ghi nhận rằng tại một số quốc gia trên khắp Châu Á, vẫn còn nhiều Kitô hữu phải chịu nhiều mối đe dọa khác nhau vì giữ đức tin của mình.
62. Bất chấp những hình thức “tử vì đạo” mới này, nhiều người vẫn trung thành với đức tin và thậm chí sẵn sàng từ bỏ mạng sống vì đức tin đó. Ở một số khu vực, các mối đe dọa và bạo lực chống lại Kitô hữu đã được ghi nhận trong khi ở những khu vực khác, dưới những hình thức khác, Kitô hữu bị phân biệt đối xử vì niềm tin của họ.
63. Các bản báo cáo cũng cộng hưởng với những tổn thương và vết thương của các Giáo hội tại Châu Á, nhấn mạnh đến sự cần thiết phải chữa lành. Trong số nhiều vết thương của Giáo hội có những lạm dụng liên quan đến tài chính, quyền tài phán, lương tâm, quyền hành và tình dục. Những điều này chắc chắn sẽ miêu tả tiêu cực về Giáo hội, đã dẫn đến việc một số người rời bỏ Giáo hội vì thiếu sự tín nhiệm. Ở cấp độ quản trị cũng vậy, sự thiếu minh bạch và trách nhiệm giải trình đã dẫn đến một cuộc khủng hoảng về uy tín trong Giáo hội.
64. Các bản báo cáo cũng chỉ ra một thực tế là do những lạm dụng này, ngày càng có nhiều sự bất khoan dung, oán giận và chủ nghĩa tiêu cực chống lại Giáo hội. Những điều này được thể hiện thông qua phương tiện truyền thông xã hội và in ấn, và các phạm vi công cộng khác. Trách nhiệm đối với Giáo hội phải thuộc về tất cả mọi người, và do đó, mọi người phải được phép tham gia tích cực vào tiến trình đưa ra quyết định thông qua sự phân định chung.
65. Ngoài ra còn có mối quan tâm sâu sắc về việc thiếu sự dung nạp đầy đủ của phụ nữ trong các tiến trình quản trị và ra quyết định trong Giáo hội. Các nữ tu trong đời sống thánh hiến, mặc dù dấn thân vào các thừa tác vụ khác nhau của Giáo hội, vẫn cảm thấy bị xa lánh và tiếng nói của họ thường không được lắng nghe đầy đủ trong các quyết định về chính sách của Giáo hội. Họ tích cực tham gia và các cam kết phục vụ của họ rất rõ ràng.
66. Các cuộc đối thoại Thượng hội đồng đã kêu gọi suy nghĩ lại về sự tham gia của phụ nữ vào đời sống Giáo hội vì phụ nữ đóng một vai trò quan trọng trong Kinh thánh. Giáo hội cần phải đổi mới cơ cấu quản trị để cho phép phụ nữ tham gia một cách có ý nghĩa vào mọi khía cạnh của Giáo hội.
67. Các báo cáo thừa nhận sự thiếu hiểu biết và thất bại của Giáo hội trong việc cung cấp đầy đủ sự chăm sóc mục vụ đối với một số nhóm người là thành phần của Giáo hội nhưng lại thường khó cảm nhận mình được chào đón. Trong số họ có cha, mẹ đơn thân, những người có hoàn cảnh hôn nhân bất thường, hôn nhân hỗn hợp, những người tự nhận mình là LGBTQIA+, cũng như những người di cư và những người khác.
68. Một số báo cáo nêu lên những quan ngại nghiêm trọng về sự vắng mặt của người trẻ trong nhiều Giáo hội và nhất là trong tiến trình ra quyết định. Đồng thời, những người trẻ tiếp tục truyền cảm hứng và thách thức toàn thể Giáo hội can đảm chấp nhận rủi ro và tạo ra những thay đổi.
69. Thỉnh thoảng một số báo cáo đề cập sơ qua về hoàn cảnh khó khăn của các dân tộc bản địa. Cũng nên lưu ý rằng nhiều nguyện vọng và tiếng nói của người bản địa chưa được nêu bật đầy đủ trong TLCL.
70. Đồng thời, lắng nghe tiếng kêu của người nghèo và trái đất là những vấn đề chưa được quan tâm đúng mức dù đây là những mối quan tâm nghiêm trọng đối với người dân Châu Á. Vai trò của Giáo hội phải là lắng nghe các cộng đồng dễ bị tổn thương và hướng tới việc bảo vệ họ cũng như môi trường, quyền và đặc quyền của họ.
71. Một số vết thương mà các Giáo hội phải trải qua là do sự xâm nhập của các ý thức hệ như chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tiêu dùng, và chủ nghĩa duy vật, gây ra bởi sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và quyền tự do tiếp cận các phương tiện truyền thông xã hội. Mặc dù phần lớn trong số này có thể đã mang lại sự phát triển ở nhiều vùng của Châu Á, Giáo hội cũng bị ảnh hưởng bởi những tác dụng phụ khác nhau của nó.
72. Tiếng nói của Giáo hội đã bị các chế độ áp bức bịt miệng đến độ Giáo hội không thể thực hiện vai trò ngôn sứ của mình. Sự im lặng cũng dẫn đến sự tự mãn thụ động kết hợp với sợ hãi và đôi khi thậm chí là sự vô cảm. Các Giáo hội trên khắp Châu Á cần phải hỗ trợ các Giáo hội dưới các chế độ áp bức bằng những phương thế không đe dọa hoặc gây nguy hiểm cho sự tồn tại của họ.
73. Trải nghiệm về niềm vui và vết thương trên khắp Châu Á chỉ có thể được coi là những cơ hội để khám phá những lộ trình mới hướng tới một Giáo hội Hiệp hành. Sát cánh cùng nhau như một Nhiệm thể hiệp nhất của Đức Kitô đòi hỏi một tầm nhìn mới trong sứ mạng mục vụ của một “Giáo hội mới”, một Giáo hội Hiệp hành.
74. Giáo hội phải bắt đầu với tinh thần dung nạp, nơi mà mọi người cảm thấy vừa được chào đón vừa cảm thấy thuộc về bên trong lều. Là dân Chúa, không ai bị loại trừ; ngay cả khi họ mỏng dòn và yếu đuối, tính dung nạp trong Giáo hội là điều bắt buộc đối với Giáo hội Hiệp hành.
75. Sự đa dạng của các tôn giáo ở Châu Á giúp cho việc tham gia vào cuộc đối thoại đại kết và liên tôn hầu như là một cách thức để xây dựng hòa bình, hòa giải và hòa hợp. Nhiều báo cáo nói về sự gắn kết hiệu quả với các Kitô hữu khác và những người thuộc các tôn giáo khác. Mặc dù có sự đa dạng về tôn giáo và văn hóa trên khắp châu Á, nhưng vẫn có những hạn chế trong các vấn đề liên quan đến đối thoại đại kết và liên tôn.
76. Tại một số nơi, việc thúc đẩy đối thoại này chỉ là sáng kiến của Giáo hội Công giáo và có những lúc không có được sự hỗ tương. Việc đối thoại này cũng được coi là "công việc" của giáo sĩ hơn là của giáo dân.
77. Một số bày tỏ sự dè dặt về những cuộc đối thoại này vì nhiều lý do bao gồm cả sự ngờ vực và nghi ngờ về động cơ của những cuộc đối thoại như vậy. Giáo hội đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng những chiếc cầu cho hòa bình, hòa giải, công lý và tự do.
78. Mặc dù rất ít đề cập đến việc bảo vệ (trẻ vị thành niên và những người dễ bị tổn thương) trong các báo cáo của Châu Á, nhưng cần phải phát triển và nuôi dưỡng môi trường văn hóa bảo vệ trong Giáo hội, ở mọi cấp độ.
79. Tiến trình Hiệp hành đã kêu gọi sự lắng nghe nhau cách rộng rãi để mang lại sự biến đổi ở mọi cấp độ của Giáo hội. Cùng với giáo dân và nam nữ tu sĩ, những người đã nói rằng họ không được lắng nghe hoặc không có tiếng nói trong Giáo hội, một số linh mục cảm thấy rằng họ không được lắng nghe đầy đủ, thậm chí đến mức cảm thấy bị bỏ rơi.
80. Đọc các báo cáo, người ta có cảm thức mạnh mẽ về một Giáo hội hướng nội cần phải thả lưới ngày càng rộng hơn. Sứ mạng đi ra phải là cốt lõi của các Giáo hội ở Châu Á. Chúng ta có nhiệm vụ chuyển đổi cách tiếp cận đời sống thiêng liêng mang tính hướng nội, cá nhân và phân cực sang một cách tiếp cận có tính truyền giáo, cộng đồng và hội nhập hơn.
81. Căn lều cần được nới rộng theo những cách thế mà các Giáo hội tương ứng ở Châu Á biết đến nhiều nhất để chúng ta có thể di chuyển theo những cách đầy triển vọng nhằm hoàn thành sứ mạng của mình với tư cách là một Giáo hội.
82. Các Giáo hội tại Châu Á đã có thể liên kết và cộng hưởng với phần lớn những gì đã được trình bày trong TLCL. Điều này cho thấy rằng có nhiều điểm tương đồng với các Giáo hội ở các quốc gia và Châu lục khác, mà nhờ đó chúng ta tạ ơn Chúa vì tất cả chúng ta đang trên hành trình cùng nhau này.
83. Chúng ta cũng nhận ra rằng một số vấn đề này có thể là đặc thù của một số khu vực nhất định, nhưng chúng ta được an ủi rằng khi chúng ta cùng nhau bước đi, có thể có một sự canh tân trong Giáo hội và mở rộng triều đại của Thiên Chúa.
Sau khi đã đọc và cầu nguyện với TLCL, những căng thẳng hoặc khác biệt đáng kể nào nổi lên là đặc biệt quan trọng trong viễn cảnh của Châu lục của bạn? Do đó, đâu là những câu hỏi hoặc vấn đề cần được hướng tới và quan tâm trong các bước tiếp theo của tiến trình?
84. Sau khi đã cầu nguyện, nghiên cứu và đọc các báo cáo khác nhau, chúng tôi tràn đầy hy vọng rằng tiến trình Hiệp hành này sẽ mang lại thành quả không chỉ trong việc “nới rộng lều” mà còn nhận ra công trình của Chúa Thánh Thần tại các Giáo hội trên khắp Châu Á.
85. Khi đọc TLCL, các Giáo hội tại Châu Á cũng nhận ra một số căng thẳng phổ quát và một số căng thẳng đặc thù đối với bối cảnh Châu Á. Nhớ rằng một số trong những căng thẳng này phức tạp hơn nhiều so với vẻ bề ngoài của chúng, nên nhiệm vụ của chúng ta không phải là tìm kiếm giải pháp vào lúc này, mà là thừa nhận những căng thẳng và khác biệt này, và suy tư thêm về những gì Chúa Thánh Thần đang nói với Giáo hội tại Châu Á.
86. Giáo hội bao gồm những người thuộc mọi bậc sống (giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân); tuy nhiên, dường như có một loại “chia rẽ” trong Giáo hội - giữa giáo sĩ và giáo dân, giám mục và linh mục/các dòng tu, các nhóm và phong trào giáo hội, các giáo phận, các hội đồng và thậm chí cả bên ngoài - giữa Giáo hội và chính quyền và kể cả giữa các tôn giáo, như được nêu ra trong nhiều báo cáo. Trong tinh thần của một Giáo hội tham gia, kinh nghiệm lãnh đạo theo “mô hình tôi tớ” cần được chú ý nhiều hơn để sống tính Hiệp hành.
87. Thách thức để trở nên một Giáo hội mang tính tham gia nhiều hơn thường bị cản trở bởi các phong cách lãnh đạo ngăn cản (thậm chí đôi khi loại trừ) những người khác sống theo ơn gọi Phép rửa của họ để trở thành môn đệ đích thực. Mô hình lãnh đạo tôi tớ bị cản trở và đôi khi phản chứng khi các linh mục có xu hướng thống trị và thậm chí có vẻ áp đặt, độc đoán và hách dịch đối với giáo dân. Việc định hình lại vai trò của giáo dân bao gồm việc mở rộng không gian cho thừa tác vụ giáo dân có thể thông qua nhiều đặc sủng, bao gồm tư vấn và hướng dẫn việc làm cho giới trẻ, chăm sóc bệnh nhân, giáo dục, và bảo vệ trẻ em.
88. Chúng tôi cũng nhìn nhận công việc của các giáo lý viên tại Châu Á, những người không chỉ là thầy dạy đức tin mà còn là người lãnh đạo cộng đồng theo đúng nghĩa của họ. Trong nhiều thế kỷ, các giáo lý viên đã chuẩn bị cho các tín hữu lãnh nhận các bí tích và đồng hành với giáo dân trong việc sống đức tin. Do đó, chúng tôi khẳng định chỉ thị của Đức Thánh Cha Phanxicô rằng các Hội đồng Giám mục... giúp cho thừa tác vụ của Giáo lý viên trở nên hữu hiệu (x. Antiquum Ministryium, số 9).
89. Thừa nhận những căng thẳng giữa giáo sĩ, nam nữ tu sĩ và giáo dân, chủ đề về sự đồng trách nhiệm của tất cả mọi người trong đời sống và sứ mạng của Giáo hội đã được nhắc đi nhắc lại trong các báo cáo. Nhiều vấn đề nảy sinh khi việc thực thi quyền lực bị tách rời khỏi trách nhiệm giải trình và tính minh bạch.
90. Người ta lưu ý rằng ở một số nơi, trách nhiệm hợp tác trong tiến trình phân định và đưa ra quyết định còn thiếu sót; thường chỉ dành cho các linh mục hoặc giám mục. Tiếng nói của thiểu số và ngay cả của giáo dân không được xem xét trong quy trình này. Đôi khi, có sự đối thoại hời hợt và thiếu sự thỉnh ý ngay cả trong những cơ cấu được Giáo luật khuyến nghị hoặc quy định như hội đồng mục vụ và hội đồng tài chính. Một số Giáo hội coi đây là một hình thức giáo sĩ trị vì nó bị thống trị bởi các giáo sĩ.
91. Việc thiếu trách nhiệm giải trình và minh bạch trong việc ra quyết định và các vấn đề tài chính trong Giáo hội đã dẫn đến sự chia rẽ hơn nữa trong việc cùng nhau bước đi theo tinh thần của một Giáo hội Hiệp hành. Những người nêu thắc mắc về những vấn đề này đôi khi bị loại khỏi Giáo hội. Những phong cách lãnh đạo hống hách và độc đoán không chỉ tồn tại trong hàng giáo phẩm mà còn có những người lãnh đạo trong giáo dân cũng thể hiện những đặc điểm như vậy. Sự căng thẳng này tiếp tục cản trở hành trình hướng tới việc trở thành một Giáo hội tham gia theo cách thức Hiệp hành.
92. Trong bối cảnh Á châu, nơi sự tôn trọng các nhà lãnh đạo là một giá trị cố hữu, có những lúc giáo dân quá tôn trọng giáo sĩ và có khả năng cao là sự tôn trọng này có thể bị lạm dụng, và quyền lực và sự kiểm soát trở thành phương thức hoạt động. Điều này càng làm suy yếu “những người không phải là giáo sĩ” trong việc đồng trách nhiệm trong sứ mạng của Giáo hội, cũng như với việc quản trị của Giáo hội.
93. Người ta cũng lưu ý rằng quan điểm phê phán quá mức đối với hàng giáo sĩ đã góp phần làm giảm ơn gọi linh mục ở một số vùng tại Châu Á. Có những khu vực ở Châu Á ngày càng cần các linh mục để phục vụ và cần cho việc tăng triển đức tin. Nhu cầu về linh mục là có thực và cho việc truyền bá Tin Mừng. Những vụ bê bối của các linh mục và thái độ và hành vi không lành mạnh của các linh mục cũng là nguyên nhân của sự sụt giảm ơn gọi.
94. Cùng với điều này, một số báo cáo cũng thừa nhận ảnh hưởng của một nền văn hóa thế tục và duy vật đối với các linh mục và ngay cả những người lãnh đạo giáo dân. Điều này thường thách thức việc làm chứng cho các giá trị Phúc Âm trong sứ mạng của Giáo Hội.
95. Trong nhiều Giáo hội ở Châu Á, sự tham gia của phụ nữ vào đời sống hàng ngày của Giáo hội là rất quan trọng. Tuy nhiên, thiếu sự hiện diện của phụ nữ trong các vai trò lãnh đạo. Trong một số xã hội, tiếng nói của họ hầu như không được lắng nghe.
96. Một số người cho rằng điều này là do sự khác biệt về văn hóa và cấu trúc gia trưởng truyền thống của các xã hội Á châu. Tại một số nơi, phụ nữ giữ vai trò lãnh đạo không được chào đón nhiều do tư duy văn hóa của họ. Dường như nam giới đưa ra quyết định hoặc lãnh đạo nhóm còn phụ nữ thường là thực hiện các quyết định hoặc làm việc dưới sự hướng dẫn của nam giới. Vai trò của phụ nữ bị coi là thứ yếu hoặc đơn giản là bị gạt bỏ khi trở thành phụ tá cho nam giới, điều này bao gồm cả những người nữ trong đời sống thánh hiến.
97. Tuy nhiên, một số quốc gia báo cáo rằng nam giới không ở trong Giáo hội, và trong những trường hợp này, chính phụ nữ đảm nhận vai trò lãnh đạo một cách hiệu quả.
98. Một hiện tượng phổ biến được ghi nhận trong các báo cáo là sự thiếu vắng giới trẻ trong các Giáo hội của chúng ta. Cho rằng giới trẻ chiếm một số lượng đáng kể trong dân số (khoảng 65%), họ tương đối vắng mặt trong đời sống của Giáo hội. Mặc dù một số người trẻ hiện diện trong đời sống của Giáo hội, nhưng vẫn cần phải đào tạo đức tin, đồng hành và để người trẻ tham gia nhiều hơn vào các vai trò lãnh đạo và các tiến trình ra quyết định.
99. Giữa khoảng cách thế hệ giữa người già và người trẻ, Giáo hội với tư cách là “người mẹ” cần mở rộng vòng tay yêu thương của mình đối với giới trẻ và vươn tới những người đang lạc lối, lầm lẫn, và tự tách mình ra khỏi Giáo hội. Mặc dù các báo cáo nói rằng giới trẻ đang vắng mặt trong Giáo hội, nhưng có lẽ một điểm cần suy tư là giới trẻ có thể đang nói rằng Giáo hội đang biến mất trong cuộc sống của họ.
100. Mặc dù giới trẻ ở các khu vực châu Á có hiểu biết về công nghệ cao hơn, nơi truy cập kỹ thuật số dễ dàng hơn, các báo cáo cũng kêu gọi đầu tư nhiều hơn vào các lĩnh vực truyền thông và truyền thông xã hội để có thể tiếp cận với họ để phúc âm hoá và loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Tuy nhiên, vẫn còn đó thách thức của việc gắn kết với giới trẻ trong cuộc đối thoại giữa thế giới ảo và thế giới thực.
101. Được ưu đãi với một lượng lớn người trẻ, Giáo hội ở Châu Á có thể hình dung mình như một "chiếc lều kỹ thuật số" để ở cùng với giới trẻ và phục vụ họ một cách hiệu quả. Hiệp hành với giới trẻ cũng có nghĩa là trải nghiệm những căng thẳng mà họ đang gánh chịu trong thế giới đang thay đổi nhanh chóng hiện nay.
102. Bên cạnh những lợi ích của thế giới kỹ thuật số, tác động tiêu cực của mạng xã hội cũng được nêu bật - người ta dành nhiều thời gian cho các thiết bị hơn là cho con người; cách nó được sử dụng để gieo rắc hận thù, định kiến và sợ hãi trong xã hội; một số người nói rằng mạng xã hội đang khiến người ta xa rời đức tin.
103. Giống như một người mẹ trong một gia đình Á châu nghèo đông con vất vả và nhiều khi không được chăm sóc đầy đủ, Giáo hội ở Châu Á cũng gắng sức và đau đớn đón nhận rất nhiều người nghèo và những người bị gạt ra bên lề xã hội, những người cần được đồng hành đặc biệt trong tiến trình Hiệp hành này.
104. Có nhiều khuôn mặt của người nghèo ở Châu Á: người nghèo về vật chất như người dân tộc thiểu số, người lao động nhập cư, người sống trong các khu ổ chuột đô thị, người chạy tị nạn, v.v.; người nghèo về mặt xã hội, những người thường bị Giáo hội và xã hội bỏ rơi, chẳng hạn như người thất học, giới trẻ thờ ơ, người khuyết tật, người bị tước đoạt tự do, những người thuộc giai cấp thấp hơn, người ly dị và tái hôn, bà mẹ đơn thân, người già và bệnh tật, người nhiễm HIV, người nghiện chất kích thích, người xác nhận là LGBTQIA+, v.v.
105. Tuy nhiên, chúng tôi nhận ra rằng thuật ngữ nghèo đói là tương đối, một người có thể nghèo về vật chất nhưng giàu về văn hóa, tinh thần và lòng hiếu khách.
106. Bất chấp một số rào cản văn hóa có thể tồn tại, Giáo hội tại Châu Á phải khao khát để can đảm hướng ánh mắt của mình đến những khuôn mặt của người nghèo, để nhìn nhận, công nhận và chào đón một cách yêu thương tất cả mọi người như con cái Thiên Chúa, những người giờ đây xứng đáng được chúng ta quan tâm. Chúng tôi nhìn nhận những căng thẳng khi chủ trương dung nạp nhưng vẫn trung thành với các giá trị Tin Mừng và trung thành về mặt đạo đức với các đường lối của Giáo hội - thậm chí có thể là một cớ vấp phạm nếu những người ấy được chào đón trong Giáo hội.
107. Giáo hội phải cố gắng tìm cách sáp nhập người nghèo vào đời sống và sứ mạng của mình, để khi được chữa lành, nuôi dưỡng và hình thành trong cảm thức đức tin trong khuôn khổ truyền thống tông đồ và căn tính Công giáo, họ có thể là những đối tác bình đẳng và những người bạn đồng hành được tôn trọng với mọi người khác trong Giáo hội. Như một số báo cáo đã đề cập, một số thay đổi này sẽ đòi hỏi phải có những sửa đổi về giáo luật để tạo điều kiện thuận lợi cho sự dung nạp của Giáo hội đối với người nghèo.
108. Giáo hội cũng phải là tiếng nói của người nghèo. Có những lúc Giáo hội im lặng trước cảnh ngộ và tiếng kêu của người Dalit, bộ lạc, người bản địa và người nghèo. Sự căng thẳng do việc không muốn gây rắc rối với chính quyền hoặc bị bịt miệng, Giáo hội có lẽ đã xa lánh những người dân này và làm ngơ trước ‘tiếng kêu của người nghèo’. Tiếng nói của Giáo hội phải bênh vực những người không có tiếng nói và không có quyền lực.
109. Mặc dù có sự đa dạng về tôn giáo trên khắp Châu Á, nhưng cũng có những xung đột tôn giáo ngày càng tăng và thậm chí cả sự đàn áp (tinh tế và trực tiếp) ở một số khu vực. Văn hóa bạo lực ngày càng tồi tệ trên khắp Châu Á, một phần là do hệ thống tư pháp hoạt động kém hiệu quả, cũng là điều đáng lo ngại. Việc chính trị hóa tôn giáo đã gây khó khăn cho việc thực hành tín ngưỡng của các nhóm thiểu số. Trong số những thách thức có cả áp bức chính trị, chính phủ độc tài, tham nhũng và luật pháp bất công.
110. Các Giáo Hội tại Châu Á luôn lâm vào tình thế chênh vênh khi phải cân bằng giữa việc trung thành với Tin Mừng và không đặt các Kitô hữu vào tình thế bị đe dọa. Ngay cả những điều được coi là hiển nhiên ở nhiều nơi như đặt tên theo Kitô giáo cho một đứa trẻ đôi khi lại là một trở ngại ở những nơi khác.
111. Có những thời điểm trong những tình huống như thế này, điều cần thiết là sự kiên nhẫn và hy vọng rằng mọi thứ sẽ thay đổi. Giáo hội tại Châu Á liên tục đối phó với những căng thẳng như vậy và cần có sự hỗ trợ lẫn nhau trong việc cùng nhau bước đi với lòng can đảm và tình yêu thương.
112. Giống như ở nhiều nơi trên thế giới, giáo sĩ trị cũng là một mối lo ngại ở Châu Á. Nhiều câu trả lời cho thấy giáo sĩ trị là một căng thẳng trong các khu vực của họ và một số cũng cho rằng nó là một trong những nguyên nhân của việc thiếu tính Hiệp hành trong Giáo hội ở Châu Á.
113. Tuy nhiên, người ta đã lưu ý rằng giáo sĩ trị có nghĩa khác nhau đối với những người khác nhau. Từ giáo sĩ trị dường như bao hàm nhiều vấn đề, đang khi tại một số khu vực, từ giáo sĩ trị liên quan đến những vấn đề cụ thể hơn. Trong số những biểu hiện giáo sĩ trị có việc thiếu tham khảo ý kiến trong các vấn đề quản trị, những thái độ độc đoán và ý thức về quyền được thể hiện bởi những người có thẩm quyền, đặc biệt là các linh mục, áp đặt quyền lực quá mức đối với người dân, v.v.
114. Một số nguyên nhân gốc rễ của giáo sĩ trị đã được xác định, chẳng hạn như tính cách cá nhân hoặc sự thiếu trưởng thành về tâm lý, một số gợi ý về các nguyên nhân mang tính hệ thống hơn, và những ý kiến khác cho rằng đó là do văn hóa vùng miền của sự im lặng và miễn trừ hình phạt. Do đó, việc đào tạo thích hợp các giám mục, giáo sĩ và giáo dân về một Giáo hội Hiệp hành có thể là một trong những đáp ứng chính đối với những lạm dụng như vậy.
115. Mặt khác, hàng giáo sĩ cảm thấy bị giáo dân chỉ trích thái quá đến nỗi một số người cảm thấy cô đơn, bị cô lập và luôn bị soi mói. Điều này dẫn đến sự mất động lực nơi các linh mục và sự e ngại nơi các người trẻ, những người có thể đang cân nhắc và phân định ơn gọi làm linh mục. Một số cho rằng việc thiếu ơn gọi là do những đòi hỏi vô lý của người dân.
116. Ý thức rằng Kitô giáo là một thiểu số ở Châu Á (người ta ước tính rằng người Công giáo chiếm khoảng 3,31% dân số Á châu và ở một số nơi dưới 1%), nhưng lại rất yêu mến Chúa Giêsu và Giáo hội của Người. Niềm vui được đồng hành cùng nhau trong sự canh tân Hiệp hành này là điều có thể cảm nhận được. Đức tin của chúng ta tiếp thêm sinh lực cho các mối tương quan của chúng ta không chỉ giữa các Kitô hữu mà còn với những người thuộc các tôn giáo thân cận trong nỗ lực tìm kiếm cuộc sống hài hòa thông qua tiến trình bắc những nhịp cầu. Ở những nơi mà sự kỳ thị và bạo lực rõ rệt hơn những nơi khác, niềm tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh giúp chúng ta mạnh mẽ và tràn đầy hy vọng giữa những nghịch cảnh này.
117. Linh đạo Á châu, được đặc trưng bởi sự chiêm niệm và tôn trọng thiên nhiên, được đan kết với một cảm thức sâu sắc về lòng đạo đức và lòng sùng kính bình dân. Những việc sùng kính này đôi khi làm sống động đức tin và thu hút mọi người đến với Giáo hội, người Công giáo cũng như người không Công giáo.
118. Những diễn đạt cụ thể của chúng ta khi thờ phượng và cầu nguyện– bao gồm các giác quan của con người, vũ điệu, nghệ thuật, thơ ca và sự thinh lặng – đôi khi gây căng thẳng qua cách thức cử hành các bí tích cách hình thức. Một số báo cáo đã chỉ ra sự cần thiết phải tái khám phá một cách sáng tạo bản chất của phụng vụ, nghĩa là dẫn người ta đến với Thiên Chúa bằng những cách thức thờ phượng của người Á châu.
119. Người ta cũng lưu ý rằng tại một số nơi, người Công giáo tham gia nhiều hơn vào việc sùng kính bình dân hơn là việc suy niệm Lời Chúa, sự phân định thiêng liêng, hoặc cầu nguyện cá nhân. Nhìn chung, nhu cầu làm cho phụng vụ trở nên sống động và dễ liên tưởng hơn - bản văn họ có thể hiểu, âm nhạc họ có thể hát và các nghi thức mà họ có thể liên kết với, những điều ấy được thể hiện theo nhiều cách khác nhau trong các báo cáo.
120. Chúng tôi thừa nhận rằng các đặc nét Á châu từ lâu đã là một phần của các dân tộc châu Á (ví dụ: sự tin tưởng vào Thiên Chúa, tương tác cộng đồng, mối tương quan với Thiên Chúa, với bản thân, với người khác, và với vũ trụ, v.v.) hiện đang bị xói mòn bởi các văn hóa toàn cầu hóa của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa tương đối.
121. Chúng tôi nhận thức rằng có sự căng thẳng giữa các nền văn hóa Á châu và các biểu hiện đức tin của chúng ta về ngôn ngữ, hình ảnh và thậm chí cả các khái niệm về quyền bính và quyền lực.
122. Có một sự căng thẳng ngày càng tăng giữa các giá trị truyền thống (tâm linh) và tính hiện đại ngay cả trong hàng giáo sĩ, tu sĩ và các gia đình. Một số hệ quả có thể thấy do sự xâm nhập toàn cầu này là đức tin bị tương đối hóa, các linh mục bị lôi cuốn vào lối sống duy vật chất và cá nhân chủ nghĩa, và thiếu chứng tá đáng tin cậy, vốn là một trong những lý do làm xói mòn đời sống thiêng liêng. Cuối cùng, số người không theo tôn giáo nào sẽ tăng lên do chủ nghĩa hiện đại, chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa thế tục.
123. Gia đình (hạt nhân và mở rộng) rất quan trọng trong nhiều xã hội Á châu. Sự trung hiếu mở rộng đến độ nhiều người sẵn sàng hy sinh cách quảng đại để gia đình đoàn kết và hòa thuận. Do đó, vai trò của các gia đình trong việc canh tân Thượng hội đồng của Giáo hội và chứng tá của nó đối với các xã hội là rất quan trọng. Gia đình sẽ là không gian đào tạo đầu tiên đối với sự canh tân Thượng hội đồng mà chúng ta đang hình dung.
124. Một số báo cáo nêu lên mối quan tâm của họ đối với hôn nhân và đời sống gia đình ngày nay – bạo lực gia đình, những bà mẹ không chồng, cha mẹ đơn thân, hôn nhân bị trì hoãn do hệ thống của hồi môn, ly hôn và vô hiệu, v.v... Những gia đình Kitô hữu tan vỡ vì thiếu ý thức về đức tin và những lo lắng do nghèo đói và điều kiện kinh tế mang lại.
125. Khuynh hướng đương thời về chủ nghĩa cá nhân thái quá càng làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng ơn gọi này, cùng với các xu hướng kinh tế khác nhau khiến cho nhiều người không mong muốn chọn đời sống gia đình. Ngoài ra cũng có những căng thẳng giữa việc gia nhập Giáo hội và các mối tương quan gia đình của họ.
126. Giữa vô vàn thách thức như vậy, hơn bao giờ hết, Giáo hội tại Châu Á cần lắng nghe tiếng nói của các gia đình, nhất là các gia đình liên tôn giáo-liên văn hóa đang trở thành một chuẩn mực hơn là ngoại lệ ở nhiều nơi trên khắp Châu Á.
127. Xuất phát từ đặc tính cộng đồng, cuộc sống chung trong các cộng đồng và miền lân cận Á châu là địa điểm diễn ra những niềm vui và khó khăn. Các không gian chung là cơ hội cho các cuộc đối thoại thân mật và sinh hoạt vui vẻ (đối thoại bằng cuộc sống). Đối diện với những thách thức về chính trị -xã hội, kinh tế và sinh thái, chúng ta không chỉ tồn tại mà còn có những tình huống mà chúng ta phát triển nhờ sức mạnh của mối tương quan này ở cấp cơ sở.
128. Trong thời gian gần đây, chúng ta cũng chứng kiến sự chia rẽ ngày càng tăng giữa các dân tộc ở Châu Á – người ta bị chia rẽ dựa trên giai cấp, ngôn ngữ, sắc tộc, tình trạng kinh tế xã hội, và sự bất khoan dung ngày càng tăng trong sự chia rẽ này.
129. Ngay cả khi chúng ta là những người hướng tới cộng đồng, thì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng do sự dư dả vật chất cũng dẫn đến việc ngày càng có nhiều người phải chịu cảnh bần cùng hoá về tình cảm, tâm linh và tinh thần. Ở một số xã hội Á châu, hình thức và lối sống thế tục trong giới lãnh đạo Giáo hội cũng gây ra căng thẳng vì nó trái ngược với sự nghèo khó của Phúc âm và sứ mạng trở thành Giáo hội của người nghèo ở Châu Á.
130. Tại một Châu lục đa dạng như Châu Á, đối thoại liên tôn vẫn là một đặc tính không thể thiếu của Giáo hội tại Châu Á. Bất chấp những nỗ lực xây dựng cầu nối, chúng tôi lưu ý rằng sự bất khoan dung về tôn giáo và xã hội đang gia tăng, điều này cuối cùng dẫn đến sự ngược đãi và điều kiện sống ngày càng tồi tệ của người dân, đặc biệt là các nhóm tôn giáo thiểu số. Trong những tình huống cực đoan, những lời buộc tội sai trái về báng bổ và khủng bố là những vấn đề chính mà Kitô hữu phải đối diện.
131. Sự đổ vỡ trong các cấu trúc dân chủ, bao gồm cả quân sự hóa và áp bức chính trị, đang thách thức cuộc sống của nhiều người ở một số quốc gia.
132. Trong Tài liệu hướng dẫn và Sứ điệp cuối cùng, Đại hội toàn thể FABC 50 đã xác định một số mối quan ngại hoặc là không được phản hồi trong các bản trả lời quốc gia tới TLCL hoặc là không được xem xét đầy đủ. Nghiên cứu tất cả các tài liệu này song song với nhau, chúng tôi đã mạn phép để đưa vào những khoảng trống đã được xác định và đã đưa chúng vào báo cáo này với hy vọng chắc chắn rằng những điều này sẽ được xem xét trong Phiên họp Thượng Hội đồng 2023/24.
133. Khủng hoảng sinh thái luôn tác động đến các cộng đồng dễ bị tổn thương và Châu Á là một trong những nơi chịu tác động đáng báo động của biến đổi khí hậu. Bất kể khả năng Châu Á có thể dẫn đầu trong việc vận động chăm sóc ngôi nhà chung, các phản hồi của Á châu không phản ánh đầy đủ cường độ của cuộc khủng hoảng sinh thái ở khu vực này.
134. Cần phải lắng nghe một cách chăm chú và sâu sắc hơn tiếng kêu cứu của đất và của người dân, đặc biệt là của những người nghèo nhất, vốn bị ảnh hưởng nặng nề nhất và để bảo tồn môi trường.
135. Nhiều quốc gia ở Châu lục của chúng ta với tiềm lực kinh tế yếu, chủ yếu phụ thuộc vào sự hỗ trợ tài chính quốc tế từ các nguồn tài trợ và các tổ chức tài chính. Điều này chắc chắn khuyến khích nâng cao kinh tế xã hội của phân khúc người nghèo trong xã hội. Tuy nhiên, các Giáo hội Á châu cũng cần nhận thức được sự cần thiết phải chia sẻ các nguồn lực của mình (ngay cả khi nó có hạn) với các Giáo hội/quốc gia chị em trong khu vực.
136. Bằng việc chia sẻ các nguồn lực, chúng ta không chỉ chia sẻ những món quà vật chất mà còn cả những món quà tinh thần mà chúng ta nhận được từ nhau, vốn làm phong phú chúng ta, chẳng hạn như sự sinh động của các Cộng đồng Giáo hội Cơ bản và các đặc sủng của các phong trào Giáo hội. Chúng ta sát cánh bên nhau như là một Giáo hội Hiệp hành, với nhau như là những dân tộc Châu Á.
137. Người ta thường nói tuổi trẻ là tương lai, nhưng tuổi trẻ cũng là hiện tại. Lựa chọn ưu tiên của chúng ta dành cho giới trẻ nên bao gồm trải nghiệm cá nhân về tình yêu của Thiên Chúa trong Giáo hội, đào tạo toàn diện, phân định ơn gọi và đồng hành. Giới trẻ tìm kiếm những chứng nhân đích thực và đáng tin cậy trong Giáo hội – họ cần một cộng đoàn Hiệp hành để cùng nhau bước đi.
138. Bằng việc nhận biết mình là ai trước mặt Thiên Chúa qua những hy vọng, ước mơ, thực tế, khó khăn và hạn chế phải đối diện trong cuộc sống, người trẻ cảm nghiệm rằng họ được hỗ trợ và không đơn độc trên lộ trình của mình, đồng thời, cũng có thể khuyến khích người khác cùng nhau bước đi trên hành trình cuộc sống.
139. Những vấn đề mà giới trẻ phải đương đầu như nghiện ma túy, cờ bạc và trực tuyến, gia đình tan vỡ và những vấn đề sức khỏe tâm thần chưa được giải quyết cách thích đáng. “Tuổi trẻ hư hỏng” không thể đóng góp vào tiến trình Hiệp hành. Vì lý do này, một Giáo hội Hiệp hành phải học cách đồng hành với những người trẻ này cho việc chữa lành, tăng trưởng và phân định ơn gọi của họ.
140. Gia đình là Giáo hội tại gia nuôi dưỡng đời sống xã hội, và gia đình cũng là ‘trường học của tính Hiệp hành’ vì chính gia đình là nơi nhân cách được hình thành. Tuy nhiên, những thách thức mới mà các gia đình phải đối diện bao gồm gia đình tan vỡ, thiếu cam kết thăng tiến cuộc sống, sợ kết hôn và giảm tỷ lệ sinh do khó khăn kinh tế và điều kiện ý thức hệ, cũng như nhiều vấn đề khác đang tác động các đơn vị gia đình ngày nay ở Châu Á.
141. Tại một số quốc gia, phá thai được ngụy tạo như một “vấn đề về quyền của phụ nữ”. Ở những nơi khác, phá thai được khuyến khích như một biện pháp kiểm soát dân số và thuyết ưu sinh. Ngoài ra còn có một nền văn hóa im lặng tai hại trong các trường hợp bạo lực gia đình, loạn luân, giết người vì danh dự, v.v. Cần phải cổ võ đời sống tâm linh của gia đình để phản ánh ơn gọi của gia đình như một nơi thánh thiêng.
142. Tại một số vùng của Châu Á, nơi các cộng đồng đang già đi, việc chăm sóc người cao tuổi cũng phải được quan tâm.
143. Số lượng các cuộc hôn nhân liên tôn giáo và liên văn hóa đang gia tăng ở Châu Á đòi phải có sự quan tâm mục vụ nhiều hơn vì điều này có thể vừa là thách đố, vừa là cơ hội để phát triển sự tôn trọng đối với các tôn giáo và văn hóa khác. Các gia đình liên tôn có thể là trường học đầu tiên đối với việc đối thoại liên tôn.
144. Nghèo đói trên khắp Châu Á là một vấn đề lớn (Ngân hàng Thế giới ước tính có hơn 320 triệu người ở Châu Á sống trong tình trạng cực kỳ nghèo khổ). Giáo hội đi tiên phong khi làm việc không mệt mỏi giữa những người nghèo và nâng đỡ tinh thần của họ. Tuy nhiên, có rất ít đề cập đến tình trạng nghèo đói đang gia tăng trên khắp châu Á và điều đó ảnh hưởng như thế nào đến việc trở thành một Giáo hội Hiệp hành.
145. Chúng tôi cũng nhận ra rằng quá trình đô thị hóa không bền vững và nạn tham nhũng có hệ thống là những vấn đề lớn ở Châu Á và phần nào có liên quan đến tình trạng nghèo đói của người dân Á châu. Tham nhũng có hệ thống này ở tất cả các cấp xã hội ảnh hưởng đến cuộc sống của những công dân bình thường. Các câu trả lời cho TLCL đã không lưu tâm lắm đến “vấn đề” này.
146. Giáo hội tại Châu Á là một thiểu số về nhân khẩu học, kinh tế xã hội, văn hóa và chính trị, do đó, chúng ta đang trở nên dễ bị tổn thương hơn trước những chế độ áp bức ngày càng tăng hoặc cực kỳ bảo thủ cũng như trước các xung đột chính trị. Trong những tình huống như vậy, việc trở thành một Giáo hội Hiệp hành có nghĩa là gì?
147. Sự tách rời giữa tôn giáo và luân lý thực sự đáng lo ngại. Cho dù người dân Á châu thường liên kết với một hình thức tôn giáo hoặc tâm linh, đời sống đạo đức đôi khi không được biến đổi bởi trải nghiệm tôn giáo. Ví dụ, một người có thể sùng đạo nhưng đồng thời lại tham nhũng.
148. Gần 60% người dân bản địa trên thế giới coi Châu Á là quê hương của họ. Mang trong mình những truyền thống đã bắt nguồn từ hàng nghìn năm, các dân tộc bản địa cho thấy loài người có thể sống hài hòa với thụ tạo như thế nào. Chúng tôi thừa nhận rằng nhiều người dân bản địa đã chấp nhận đức tin Kitô giáo, nhưng ngay cả trong Giáo hội – bị tổn thương bởi chủ nghĩa bộ tộc và thành kiến – họ đấu tranh để được tôn trọng như những tác nhân đồng hành của việc loan báo Tin Mừng. Mặc dù có nhiều dân tộc bản địa ở Châu Á, nhưng rất ít thông tin về họ được đề cập trong các bản trả lời.
149. Giáo hội hiện diện trong thế giới và cho thế giới. Tuy nhiên, nhiều bản trả lời còn quá mang tính nội bộ – chỉ nhìn vào bên trong Giáo hội mà thôi. Một mức độ an nhàn khiến Giáo hội chỉ thoải mái giải quyết các công việc của mình có thể đã dẫn đến việc thiếu tham khảo về Giáo hội biến đổi thế giới (Châu Á) ra sao để tất cả mọi người sẽ được hưởng hoa trái của vương quốc Thiên Chúa. Giáo hội tại Châu Á phải liên tục đặt câu hỏi làm thế nào để missio ad gentes có thể được nhìn nhận và sống theo cách thức Hiệp hành như một cách để nới rộng không gian trong lều của chúng ta.
150. Giáo hội không thể tự quy chiếu và do đó phải tìm cách dấn thân vào việc canh tân thế giới. Một trong những cách đó là xây dựng các Cộng đồng Giáo hội Cơ bản (BEC) để mang lại sự chuyển đổi xã hội - chăm sóc ngôi nhà chung và đối thoại liên tôn. Văn hóa đối thoại với các tôn giáo và gặp gỡ các nền văn hóa phải được hội nhập vào đời sống của Giáo hội. Giáo hội phải hướng tới việc kết nối rộng rãi hơn với những người khác (các tổ chức và cơ sở) vì lợi ích chung của tất cả mọi người.
151. Những vấn đề liên quan đến người di cư, người tị nạn, người tản cư cũng như nạn buôn người, v.v... đang gia tăng nhanh chóng ở các khu vực Á châu. Động lực chính cho sự di dời của số lượng lớn người như vậy bao gồm xung đột, mong muốn có cơ hội kinh tế tốt hơn, hủy hoại môi trường, nạn nhân của sự bóc lột, v.v.
152. Sự bất ổn chính trị tại một số vùng của Châu Á đã khiến người dân trở thành người lánh nạn và người xin tị nạn chính trị. Làm sao để Giáo Hội trở thành một “chiếc lều chào đón” dành cho những người đang tìm kiếm hòa bình, an ninh và hòa hợp này? Tại nhiều nơi trong số này, người dân trở thành những thừa sai của Phúc âm khi họ mang đến không chỉ những kinh nghiệm sống mà còn cả đức tin của họ. Những người di cư, tị nạn và tản cư cũng mang lại sức sống cho đời sống của các Giáo hội địa phương nhờ sự hiện diện của họ. Giáo hội phải tìm cách hội nhập và đồng hành với họ trên hành trình này với tư cách là những người rao giảng Tin Mừng mới.
153. Ở những quốc gia có xung đột nội bộ do các chế độ áp bức và độc tài, Giáo hội phải đóng một vai trò không thể thiếu trong việc xây dựng hòa bình và giải quyết xung đột. Trong số nhiều vai trò khác của Giáo hội, hòa bình và sự hài hòa của mọi công dân phải là một trong những ưu tiên mục vụ của Giáo hội.
154. Hoạt động hướng tới hòa bình và hòa giải có thể là một trong những hình thức tân Phúc âm hoá. Ngoài việc coi Giáo hội như một “chiếc lều” dung nạp, Giáo hội còn phải là “người bắc cầu” trong công trình hòa bình và hòa giải.
155. Việc bảo vệ trẻ vị thành niên và những người dễ bị tổn thương là mối quan tâm của Giáo hội tại Châu Á. Mặc dù tỷ lệ thấp trong số các trường hợp được báo cáo (một phần vì lý do văn hóa), đây là một mối quan tâm lớn. Có rất ít đề cập trong các bản trả lời cho TLCL về vấn đề này. Tuy nhiên, điều này phải được ưu tiên trong việc đào tạo tất cả nhân sự của Giáo hội.
156. Giáo hội tại Châu Á phải lắng nghe, trông chừng, bảo vệ và chăm sóc những trẻ em bị lạm dụng, bị bóc lột, và bị lãng quên, bất kể các em ở đâu bằng việc tạo ra môi trường an toàn và thực hiện các biện pháp bảo vệ.
157. Vì những lý do hiển nhiên, các Giám mục đóng một vai trò không thể thay thế trong việc làm sinh động tiến trình Hiệp hành trong Giáo hội địa phương. Với tư cách là mục tử chính yếu của dân Chúa, mức độ nhiệt thành và chân thành qua đó ngài chấp nhận cách tiếp cận Hiệp hành trong cung cách lãnh đạo của mình đến độ tạo cảm hứng cho nỗ lực tái khám phá thực hành Kitô giáo quan trọng này giữa hàng giáo sĩ và giáo dân, những người ngài được kêu gọi để phục vụ.
158. Trách nhiệm của Giám mục trong việc khẳng định truyền thống đích thực của cộng đoàn Kitô giáo được gợi hứng bởi sự nhiệt tâm làm chứng cho sự tin tưởng triệt để vào hoạt động ban sự sống của Chúa Thánh Thần trong đời sống của cộng đoàn này: “Sống hiệp hành là thực hiện việc loan báo Tin Mừng” (ĐGH Phanxicô). Noi gương Vị Mục Tử Nhân Lành trong việc cổ võ đoàn chiên không ngừng tăng trưởng và hoán cải thông qua việc khao khát và nhận biết rằng chỉ có Con Đường và Sự Thật mới dẫn đến sự sống—sự sống đích thực, sự sống dồi dào, và sự sống vĩnh cửu.
159. Bằng cách này, Giám mục vẫn trung thành với vai trò và ơn gọi của mình trong bối cảnh của việc duy trì và củng cố căn tính Công giáo, đồng thời thúc giục những người khác tham gia vào ba khía cạnh thiết yếu của thực tại Kitô giáo: hiệp thông, tham gia và sứ vụ.
160. Khi hân hoan chấp nhận thẩm quyền của các vị lãnh đạo cộng đoàn, hàng giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân được củng cố ơn gọi của họ trong việc nhận biết Thiên Chúa, yêu mến và phục vụ Ngài nơi tha nhân. Lắng nghe Thiên Chúa trong Lời của Ngài, qua Giáo hội, và trong cuộc đối thoại với người khác, tất cả các thành viên của cộng đoàn chia sẻ trách nhiệm phục vụ theo đặc tính Phép Rửa của mình.
161. Các giám mục ngày nay có thể chứng thực lời của Thánh Gioan Kim Khẩu, vị mục tử Kitô giáo sơ khai, người đã tuyên bố rằng “Giáo hội và Thượng hội đồng đồng nghĩa với nhau”. Các vị giám mục này dẫn dắt dân Chúa và ngược lại được khích lệ, đồng hành và am hiểu bởi sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần như được thể hiện trong cuộc sống của tất cả mọi người trong cộng đoàn.
162. Không ai được miễn trừ hoặc loại trừ khỏi trách nhiệm phân định và đón nhận ơn gọi chung, bắt nguồn từ Phép Rửa này, và chính ý muốn của Đức Kitô là không ai bị bỏ quên, không được trợ giúp bởi ân sủng mà nhờ đó đời sống được phong phú hơn và thế giới mà chúng ta đang sống được hòa giải và thánh hóa.
163. Trong tất cả những khoảng trống trên đây, cách thế Hiệp hành phải thấm nhuần khi giải quyết những khoảng trống này và lộ trình Hiệp hành phải là trung tâm của đời sống và sứ mạng của Giáo hội.
164. Các bản trả lời của Á châu rất đa dạng và phong phú, tóm lược nhiều vấn đề và thách đố, mang tính đặc thù tùy theo vùng. Tuy nhiên, có một số điểm tương đồng mà chúng tôi thấy trong các bản trả lời, tất cả đều chỉ ra nhu cầu về sự lãnh đạo phục vụ mang tính ngôn sứ đích thực, nó phụ thuộc vào và dẫn đến sự hoán cải liên tục. Rõ ràng là, ở một mức độ rộng lớn, tiến trình Hiệp hành có thể thực hiện được nhiều hơn với sự nhận thức và sự sẵn sàng của dân Chúa để đón nhận thực tế này.
165. Sau đây là 6 ưu tiên đã được xác định qua tiến trình cầu nguyện và phân định với hy vọng rằng chúng phản ánh ước muốn của tâm hồn người Á châu.
166. Đối với một Giáo hội Hiệp hành, cần phải có một sự đào tạo khởi đầu và liên tục ở mọi cấp độ, cho tất cả mọi người, bắt đầu từ các gia đình và các Cộng đồng Giáo hội Cơ bản (BEC).
167. Các chủng sinh, linh mục, giám mục và nam nữ tu sĩ phải được đào tạo để sống các phong cách lãnh đạo Hiệp hành, phân định cộng đoàn và đưa ra quyết định – sự thúc đẩy một nền văn hóa Hiệp hành đòi hỏi phải canh tân việc đào tạo các nhà đào tạo chủng viện, giáo sư thần học, và chương trình chủng viện hiện tại cần hướng đến mục vụ đời sống hơn.
168. Giáo dân cần được huấn luyện để đảm nhận các vai trò thiết thực, theo ơn gọi phép rửa, để quảng đại phục vụ Thiên Chúa, yêu mến Giáo hội và mọi người trong Giáo hội. Việc đào tạo đối với một linh đạo Hiệp hành phải nằm ở tâm điểm của sứ mạng và tầm nhìn của Giáo hội.
169. Phụ nữ, giới trẻ, và những người bị gạt ra bên lề hoặc bị loại trừ, đặc biệt lưu tâm đến những người bị bỏ rơi (ví dụ: trẻ em đường phố và người già), cũng nên cung cấp sự chăm sóc mục vụ quan trọng cho những người ly dị, tái hôn, cha mẹ đơn thân, gia đình đổ vỡ, người khuyết tật, tù nhân, người xác nhận là LGBTQIA+, người cao niên, người nghiện chất kích thích, người hành nghề mại dâm, v.v.), những người bị tổn thương và bị ngược đãi, gia đình đổ vỡ và những người vật lộn với bản dạng giới, những người tản cư và bị bách hại, và một loạt những người khác nữa phải tìm được chỗ của mình trong ‘lều’ (Giáo hội) này.
170. Các cấu trúc có thể cần được xem xét lại để mọi người cảm thấy mình thuộc về Giáo hội và mỗi người trở thành một sứ giả của Đức Kitô, một sứ giả của sự dung nạp và lòng hiếu khách.
171. Trong bối cảnh Châu Á, chúng ta phải học làm sao để làm chứng mang tính ngôn sứ và “thì thầm” Tin Mừng cho nhau, điều trước hết đòi hỏi tích cực sống đức tin của mình được đặt nền tảng trên những cuộc gặp gỡ và trải nghiệm cá nhân với Chúa Giêsu và góp phần tạo nên cộng đoàn Giáo hội như một cộng đoàn hiệp thông.
172. Trong khi thừa nhận rằng các Kitô hữu là một thiểu số ở Châu Á, chứng tá có một không hai của các vị tử đạo Á châu mang đến một thách thức và nguồn khích lệ.
173. Chúng ta cũng phải học biết để lớn lên trong đối thoại, tham vấn và phân định cộng đoàn. Đồng thời, tôn trọng những điều nhạy cảm của các dân tộc Á châu khác cũng phải là tâm điểm của Giáo Hội. Gia đình liên tôn đang trở thành một cảnh tượng phổ biến và do đó, làm thế nào để chúng ta mang Đức Kitô đến cho người khác? Chúng ta cần đón nhận một nền văn hóa gặp gỡ và xây dựng cầu nối để mang Đức Kitô đến với thế giới.
174. Trong thời kỳ hậu đại dịch này, sự kết hợp giữa đời sống Giáo hội (trực tiếp và trực tuyến) là một thực tế mà chúng ta phải nắm lấy và tận dụng tối đa các cơ hội để loan báo Tin Mừng, bao gồm cả việc sử dụng công nghệ rộng rãi và có phân định hơn trong nỗ lực này, như nhiệm vụ Kitô hữu của chúng ta.
175. Lời kêu gọi phải có trách nhiệm giải trình và minh bạch không chỉ trong các vấn đề tài chính mà còn trong các quy trình ra quyết định và quản trị. Điều này có thể đòi hỏi phải sửa đổi một số điều khoản của Giáo luật. Những người trong vai trò lãnh đạo - dù là giáo sĩ hay giáo dân, cũng có trách nhiệm đối với việc đào tạo giáo dân và giới trẻ.
176. Tinh thần cộng tác và đồng trách nhiệm phải được cổ võ bằng cách mỗi người đón nhận ơn gọi và bậc sống của người khác cũng như các đoàn sủng đa dạng trong Giáo hội.
177. Việc cầu nguyện và thờ phượng của chúng ta phải phản ánh và chạm đến trái tim của người dân Á châu. Các cử hành phụng vụ phải mang tính “Hiệp hành” hơn (có sự tham gia, hoà nhập, liên kết, và vui vẻ) để mọi người có thể tìm thấy một không gian thánh thiêng và an toàn để thờ phượng Thiên Chúa. Việc hội nhập văn hóa vào đời sống và việc thờ phượng của Giáo hội cũng phải làm sống động đời sống của tín hữu.
178. Trong việc chăm sóc ngôi nhà chung, Giáo hội phải tiên phong trong việc không chỉ bảo vệ mà còn chữa lành Mẹ Trái đất. Như Chúa Giêsu đã đến để cứu chuộc và hòa giải mọi sự, Giáo hội phải tìm cách canh tân bộ mặt trái đất.
179. Là những chi thể của một Nhiệm thể Chúa Kitô, chúng ta được mời gọi trở thành một Giáo hội xanh tươi và sống trong tình liên đới, tôn trọng, bảo vệ, bênh vực và nuôi dưỡng tính hoà hợp của tất cả Tạo thành của Thiên Chúa. Mối quan tâm về môi trường không chỉ đơn thuần là sinh thái mà còn có chiều kích tâm linh và xã hội vì nó ảnh hưởng đến tất cả mọi người, nhất là người nghèo.
180. Người Á châu có thói quen cởi giày khi vào nhà hoặc chùa chiền. Đây là một dấu chỉ đẹp của sự tôn trọng; của cách chúng ta ý thức về người khác mà chúng ta đang bước vào cuộc sống của họ. Hơn nữa, đó còn là biểu hiện của nhận thức sâu xa của chúng ta về tính thánh thiêng.
181. Nó nhắc chúng ta về điều Thiên Chúa đã nói với Môsê (Xh 3, 5): “Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh”. Quan trọng hơn, việc 'cởi giày' giúp chúng ta nhận thức được trái đất mà tất cả chúng ta được kêu gọi bảo vệ và chăm sóc.
182. ‘Việc cởi giày ra’ cũng là một biểu tượng đẹp về lộ trình Hiệp hành của chúng ta với tư cách là Giáo hội ở Châu Á. Được đặc trưng bởi sự đa dạng về văn hóa và tôn giáo, việc cởi giày nhắc chúng ta tôn trọng tất cả khi chúng ta lắng nghe và đối thoại, phân định và quyết định. Nó cũng có nghĩa là trong việc lắng nghe đích thực; chúng ta bỏ lại đằng sau những định kiến và thành kiến của mình để chào đón người khác.
183. Giày có thể là biểu tượng của địa vị và với việc cởi giày ra, chúng ta nhận thức rằng chúng ta bình đẳng như là con người. Đi chân không, chúng ta trở nên ý thức và cũng đồng hóa mình với những người nghèo nhất trong chúng ta.
184. ‘Việc cởi giày ra’ cũng giúp chúng ta cũng ý thức rõ về đất, về mặt đất mà chúng ta đang bước lên. Bối cảnh chính trị-xã hội của Châu Á rất thách đố và cách Giáo hội hành động trong bối cảnh này là điều hết sức quan trọng trong việc đồng hành với nhân loại. Nó làm cho chúng ta cảm thấy gần gũi hơn với thực tế cơ bản của người dân Châu Á.
185. ‘Việc cởi giày ra’ như một hình ảnh mang tính giáo hội Hiệp hành nói lên trải nghiệm của chúng ta về Giáo hội như là sự cùng nhau bước đi mang tính tương quan, bối cảnh và sứ mạng trong khiêm tốn và hy vọng.
186. Lộ trình Hiệp hành bắt đầu vào tháng 10. 2021 không phải là một tiến trình mới mẻ đối với các Giáo hội ở Châu Á. Tại nhiều quốc gia, đã có những cơ hội cho việc lắng nghe và phân định để khai triển những kế hoạch mục vụ. Tuy nhiên, đây chỉ ở cấp giáo xứ, giáo phận hoặc quốc gia. Đã có cả thành công và thách đố ở các cấp độ này.
187. Lộ trình Hiệp hành đã mang lại cho những tín hữu Công giáo tham gia vào tiến trình này một sự hiểu biết tốt hơn về khu vực và phổ quát về những an ủi và mối quan tâm của các Giáo hội khác nhau. Có một sự thừa nhận rằng những an ủi và thách thức không chỉ là duy nhất đối với các khu vực khác nhau mà còn phức tạp theo cách của họ.
188. Tiến trình phân định phần lớn đã tiếp thêm sinh lực cho đời sống của Giáo hội nhờ sự tham gia tích cực của nhiều người Công giáo mà kinh nghiệm trước đây có thể là ở vùng ngoại biên. Đối với nhiều người, hạt giống hy vọng đã được gieo trong tiến trình này, đồng thời, chúng tôi thừa nhận rằng một số người đã hoài nghi vì nhiều lý do.
189. Đây là một tiến trình phải thấm nhuần vào mọi cấp độ của đời sống Giáo hội. Tiến trình Hiệp hành, tức là phân định và đối thoại thiêng liêng, phải là một phần của đời sống và thừa tác vụ của Giáo hội từ nay trở đi. Một số Giáo hội trên khắp Châu Á đã bắt đầu thực hiện thành quả của việc lắng nghe trong giai đoạn đầu của tiến trình Hiệp hành.
190. Mặc dù việc thay đổi các cơ cấu là quan trọng để thực hiện các thay đổi mang tính Hiệp hành, nhưng không được quên các khía cạnh của tính tương quan trên hành trình này như một phần không thể thiếu của việc trở thành một Giáo hội Hiệp hành.
191. Đại hội cấp Châu lục của Á châu (24-26 tháng 2 năm 2023), có ý kiến đề xuất rằng bản báo cáo cuối cùng (relatio finalis) của Thượng Hội đồng vào tháng 10. 2023 được công bố càng sớm càng tốt để các Hội đồng, Giáo phận và Giáo xứ có thể bắt đầu làm việc dựa trên các đề xuất có thể phát sinh tại Đại hội Thường kỳ lần thứ XVI của Thượng Hội đồng Giám mục.
192. Với sự đa dạng về ngôn ngữ trên khắp Châu Á, sẽ rất hữu ích nếu một bản tóm tắt của bản báo cáo cuối cùng cũng được xuất bản để các quốc gia có thể thực hiện các bản dịch khác nhau, và được phổ biến tới càng nhiều người càng tốt.
193. Nên có các cuộc đối thoại Thượng hội đồng cấp tiểu khu vực sau cuộc họp Thượng Hội đồng vào tháng 10. 2023. Những cuộc họp này có thể là một phương tiện để các Giáo hội ở Châu Á tiếp tục lắng nghe và phân định và thậm chí có thể là một Thượng Hội đồng Giáo hội vào năm 2024.
Khi đề xuất Tài liệu Cuối cùng này, thành quả của sự lắng nghe và phân định, chúng ta khẩn xin sự bảo vệ và chuyển cầu từ mẫu của Đức Maria, Mẹ của Châu Á, trong cuộc hành hương Hiệp hành này cùng với phần còn lại của nhân loại.
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Nguồn tin: https://hdgmvietnam.com/
[1] Hội đồng Giám mục Công giáo Bangladesh (CBCB), Hội đồng Giám mục Công giáo Trung Á [Conferenza Episcopale Cattolica dell'Asia Centrale] (CECAC), Hội đồng Giám mục Công giáo Latinh Ấn Độ (CCBI), Hội đồng Giám mục Công giáo Ấn Độ (CBCI), Hội đồng Giám mục Công giáo Indonesia [Konferensi Waligereja Indonesia] (KWI), Hội đồng Giám mục Công giáo Nhật Bản (CBCJ), Hội đồng Giám mục Công giáo Hàn Quốc (CBCK), Hội đồng Giám mục Công giáo Lào và Campuchia [Conférence Episcopale du Laos et du Cambodge] (CELAC), Hội đồng Giám mục Công giáo Malaysia-Singapore-Brunei (CBCMSB), Hội đồng Giám mục Công giáo Myanmar (CBCM), Hội đồng Giám mục Công giáo Pakistan (PCBC), Hội đồng Giám mục Công giáo Philippines (CBCP), Hội đồng Giám mục Công giáo Sri Lanka (CBCSL), Hội đồng Giám mục Khu vực Trung Quốc (CRBC) [Đài Loan], Hội đồng Giám mục Công giáo Thái Lan (CBCT), Hội đồng Giám mục Timorense (CET), Hội đồng Giám mục Công giáo Việt Nam (CBCV).
[2] Thượng hội đồng Giám mục nghi lễ Syro-Malabar (Ấn Độ), Giáo hội Công giáo Syro-Malankara (Ấn Độ).
[3] Giáo phận Hong Kong, Giáo phận Macau, Hạt Đại diện Tông tòa Nepal.
[4] Afghanistan, Bangladesh, Brunei, Campuchia, Hồng Kông, Ấn Độ, Indonesia, Nhật Bản, Kazakhstan, Hàn Quốc, Kyrgyzstan, Lào, Ma Cao, Malaysia, Mông Cổ, Myanmar, Nepal, Pakistan, Philippines, Singapore, Sri Lanka, Đài Loan, Tajikistan, Thái Lan, Thái Lan, Timor Leste, Turkmenistan, Uzbekistan, Việt Nam.
Copyright © 2021 Bản quyền thuộc về HỘI DÒNG NỮ ĐA MINH THÁI BÌNH
Đang online: 55 | Tổng lượt truy cập: 3,053,239