Suy niệm Tin mừng Chúa nhật Lễ Lá - Năm C (Lc 19, 28-40)

  • 15/01/2023 18:39
  • “Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng ngự đến nhân danh Chúa!" (Lc 19, 38).

     

    1. Bài đọc 1:  Is 50,4-7

    Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Mỗi sáng Người đánh thức tôi, Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn. Thiên Chúa đã mở tai tôi, mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn.

     

    SUY NIỆM

    Bài đọc 1 là trích đoạn chính trong bài ca thứ ba về người Tôi Trung của Thiên Chúa Yahweh (Is 50,4-9). Các bài ca còn lại về người Tôi Trung này xuất hiện ở Is 42,1-4; 49,1-6; 52,13-53,12. Trong bài đọc 1 này, Người Tôi Trung phải chịu cảnh nhục nhã ê chề, đau đớn về mặt thể lý lẫn tinh thần. Vì muốn sống trọn lòng vâng phục của mình với Thiên Chúa, Người Tôi Trung đã vui lòng đón nhận việc “đưa lưng cho người ta đánh đòn, đưa má cho người ta giật râu, không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ”. Quả thật, cảm nghiệm và kinh nghiệm bị người đời đối xử bất công, bị hành hạ về thể lý, bị nhục mạ về tinh thần, vốn thường là những hậu quả không tránh khỏi của không ít những ai muốn sống trung tín với Thiên Chúa, với sứ mạng Người trao.

    Người Tôi Trung cảm nhận mình đã được Thiên Chúa giảng dạy, đã được Thiên Chúa mở tai, để được lắng nghe tiếng Người. Về phía mình, Người Tôi Trung đã không ngoảnh mặt làm ngơ trước những gì Chúa dạy. Ngài đã không thoái lui trước sứ mạng Chúa trao. Với khả năng được Thiên Chúa trao ban cho mình, Người Tôi Trung đã trình bày Lời Chúa như một “người môn đệ”, tức là, như người giảng dạy Lời Chúa cho dân, phát xuất từ những kinh nghiệm thâm sâu của chính mình với “Đức Chúa là Chúa Thượng” (3x, cc.4.5.7), là bậc tôn sư của mình. Chính từ kinh nghiệm thân tình này với Thiên Chúa, mà Người Tôi Trung biết dùng lời lẽ “nâng đỡ những ai kiệt sức rã rời”.

    Người tín hữu chúng ta không khó nhận ra những lời này đã được ứng nghiệm trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Chính Người đã từng dùng những lời an ủi nâng đỡ chúng ta: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28). Với những ai đang đau khổ buồn phiền vì mang lấy gánh nặng của tội lỗi nơi mình, Chúa Giêsu đã mang lại cho họ niềm hy vọng và niềm tin vào lòng xót thương của Thiên Chúa: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3,16-17).

    Nhưng không phải tất cả mọi người đều sẵn lòng nghe tiếng Người Tôi Trung giảng dạy. Không ít kẻ đã tỏ thái độ thù nghịch với Người Tôi Trung. Họ đã đối xử với Ngài bằng những hình thức bất công và bạo lực, nhằm làm lung lay tinh thần của Ngài. Nhưng từ cảm nghiệm thiêng liêng sâu xa trong tình thân với Thiên Chúa, tức là nghiệm thấy một đàng, những hành vi nhục mạ kia không phải do lỗi của Người Tôi Trung, nhưng do sự ghen ghét đố kỵ của những kẻ chống lại Ngài mà ra; đàng khác, và đây là điểm sâu xa hơn, đó là Người Tôi Trung nghiệm thấy Đức Chúa luôn là Đấng phù trì, bênh đỡ mình ngay cả trong những hoàn cảnh tưởng chừng bi đát nhất. Từ kinh nghiệm thiêng liêng này, mà Người Tôi Trung không tỏ ra nao núng, nhưng cương quyết hơn bao giờ hết trước sứ mạng được Thiên Chúa trao ban.

    Đối với người tín hữu chúng ta, những lời ngôn sứ về tình cảnh đau thương của Người Tôi Trung – việc “đưa lưng cho người ta đánh đòn, đưa má cho người ta giật râu, không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (c6) - đã được ứng nghiệm theo nghĩa đen của hạn từ trong Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu (x. Mt 26,57; 27,30; Mc 14,65; 15,16-20; Lc 22,63).

     

    2.  Đáp ca:  Tv 21, 8-9. 17-18a. 19-20. 23-24

    Đáp: Ôi Thiên Chúa! Ôi Thiên Chúa! sao Chúa đã bỏ con? (c. 2a)

    1) Bao người thấy con đều mỉa mai con, họ bĩu môi, họ lắc đầu: "Hắn tin cậy Chúa, xin Ngài cứu hắn, xin Ngài giải gỡ hắn, nếu Ngài yêu thương".

    2) Đứng quanh con là đàn ưng khuyển, một lũ côn đồ bao bọc lấy con. Chân tay con chúng đều chọc thủng, con có thể đếm được mọi đốt xương con.

    3) Phần chúng thì nhìn xem con và vui vẻ, đem y phục của con chia sẻ với nhau, còn tấm áo dài, thì chúng rút thăm. Phần Ngài, lạy Chúa, xin chớ đứng xa con, ôi Đấng phù trợ con, xin kíp ra tay nâng đỡ.

    4) Con sẽ tường thuật danh Chúa cho các anh em, giữa nơi công hội, con sẽ ngợi khen Người. "Chư quân là người tôn sợ Chúa, xin hãy ca khen Chúa. Toàn thể miêu duệ nhà Giacóp, hãy chúc tụng Người, hãy tôn sợ Người, hết thảy dòng giống Israel!"

     

    3. Bài đọc 2:  Pl 2, 6-11

    Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang.

     

    SUY NIỆM

    Bài đọc 2 được xem là một trong những đoạn Kinh Thánh ghi đậm nét Kitô học nhất trong toàn bộ Tân Ước. Thánh Phaolô đã trình bày bài thánh thi này như lời mời gọi sâu xa đối với từng người tín hữu: “hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm chi vì ghen tị hay hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác” (Pl 2,2-4).

    Ngài mời gọi người tín hữu hãy học nơi Đức Giêsu Kitô gương tự hạ hoàn toàn, xóa mình ra không, vì lợi ích phần rỗi của con người. Quả thật, bài thánh thi này đã tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Đấng đã hóa mình ra không, Ngài là Đấng “vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa”, nhưng đã “hoàn toàn trút bỏ vinh quang”, nên một trong chúng ta trong mầu nhiệm Nhập Thể của Người. Điều này không có nghĩa là Đức Giêsu Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa Nhập Thể, không còn là Thiên Chúa nữa. Không, Ngài mãi là Thiên Chúa theo thần tính của Người. Nhưng với mầu nhiệm Nhập Thể, Ngài là Thiên Chúa theo hình thái khác: Ngài là Thiên Chúa nhập thể, Thiên Chúa với “thân xác” như chúng ta, nghĩa là chịu những giới hạn tự nhiên đi kèm theo thân xác ấy.

    Với thân xác như chúng ta, Đức Giêsu Kitô là “Thiên Chúa ẩn mình”. Ngay cả các môn đệ là những người cận kề bên Người thường ngày, cũng không dễ dàng nhận ra “thần tính” của Người. Khi Chúa Giêsu thi hành sứ vụ công khai của Người, chỉ có ba môn đệ là Phêrô, Gioan và Giacôbê, là những người được Chúa Giêsu ban cho những giây phút hạnh phúc ngất ngây nhất, khi chiêm ngắm Chúa Giêsu biến hình, bày tỏ vinh quang Thiên Chúa rạng ngời vinh hiển của Người. Quả thật, vào thế kỷ I, không mấy ai nhận ra vinh quang Thiên Chúa nơi Đức Giêsu tại thế, đó là vì Người đã tự nguyện “trút bỏ vinh quang”, nghĩa là đã ẩn dấu vinh quang thần linh ấy nơi cuộc sống thường ngày của Người.  

    Người lại còn hạ mình hơn nữa, khi vâng phục đón nhận cái chết đau đớn và ô nhục trên thập giá, vì tình yêu dành cho Thiên Chúa Cha và vì phần rỗi của từng người chúng ta. Vì thế, hơn ai hết, Đấng đã hạ mình tột bậc, vốn thể hiện rõ nét nhất trong Cuộc Thương Khó, nay với biến cố Phục Sinh, xứng đáng được Thiên Chúa siêu tôn, với danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu, và được mọi loài trên trời, dưới đất, trong nơi âm phủ bái lạy Người, tôn xưng Người là Chúa.

     

    4.  Tin Mừng:  Lc 19, 28-40

    Khi ấy, Ðức Giêsu đi đầu, tiến lên Giêrusalem. Khi đến gần làng Bếtphaghê, bên triền núi gọi là Ôliu, Người sai hai môn đệ và bảo: “Các anh đi vào làng trước mặt kia. Khi vào sẽ thấy một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh tháo dây ra và dắt nó đi. Và nếu có ai hỏi: ‘Tại sao các anh tháo lừa người ta ra’, thì cứ nói: ‘Chúa cần đến nó!’” Hai người được sai ấy ra đi và thấy y như Người đã nói. Các ông đang tháo dây lừa, thì những người chủ con lừa nói với các ông: “Tại sao các anh lại tháo con lừa ra?” Hai ông đáp: “Chúa cần đến nó”.
    Các ông dắt lừa về cho Ðức Giêsu, rồi lấy áo choàng của mình phủ trên lưng lừa, và đặt Ðức Giêsu lên. Người tới đâu, người ta cũng lấy áo mình trải xuống đường. Khi Người đến gần chỗ dốc xuống núi Ôliu, tất cả đoàn môn đệ vui mừng bắt đầu lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa, vì các phép lạ họ đã được thấy. Họ hô lên:
    “Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng ngự đến nhân danh Chúa!
    Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời!”
    Trong đám đông, có vài người thuộc nhóm Pharisêu nói với Ðức Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy quở trách môn đệ Thầy đi chứ!” Người đáp: “Tôi bảo các ông: họ mà làm thinh, thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên!”

     

    5. Suy niệm:  

    Bài đọc về Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu Kitô làm nổi bật những hình ảnh tương phản, những nhân vật có những vai trò khác nhau. Những hình ảnh và những nhân vật này đáng để chúng ta suy gẫm:

    1. Vì yêu thương nhân loại, Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể để ở lại mãi với chúng ta. Người muốn hiến thân mình để đem lại ơn cứu độ cho nhân loại. Nhưng các môn đệ lại chưa hiểu được những điều tâm huyết Chúa muốn chia sẻ với họ trước khi Người bước vào thời khắc quyết định trong Cuộc Thương Khó. Họ lại còn cãi nhau sôi nổi xem ai là người cao trọng nhất trong nhóm.

    2. Tại Vườn Dầu, Chúa Giêsu tha thiết cầu nguyện cùng Chúa Cha. Có lúc Người lâm cơn xao xuyến bồi hồi, mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất. Trong khi đó, các môn đệ lại đang ngủ, chẳng màng gì đến lời Chúa khuyên bảo họ trước đó: “Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”.

    3. Phêrô tỏ rõ quyết tâm theo Chúa Giêsu, ông thưa với Người: “Lạy Chúa, dầu có phải vào tù hay phải chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng”. Nhưng Chúa Giêsu lại tiên báo: “hôm nay gà chưa kịp gáy, thì anh đã ba lần chối là không biết Thầy”.

    4. Chúa Giêsu yêu mến các môn đệ của Người. Nhưng Giuđa lại bán Chúa bằng một nụ hôn giả hình. Phêrô đủ can đảm chém đứt tai tên đầy tớ, nhưng lại không dám tuyên nhận mình là người môn đệ của Chúa.

    5. Chúa Giêsu là một bậc thầy công chính, nhưng các thượng tế, kinh sư, kỳ mục và đám tùy tùng lại tìm bắt Chúa như bắt một tên trộm cướp. Nhiều phiên tòa được tổ chức vội vã để lên án tử cho Giêsu. Những câu hỏi được đặt ra cho Chúa Giêsu đều mang tính gài bẫy, hòng tìm cách giết Người cho bằng được. Trước tòa án tôn giáo, họ nại đủ lý do mang tính tôn giáo để tìm cách giết Người. Trước toàn án Philatô, những kẻ tố cáo Người phát biểu lấp liếm, tạo lý do chính trị để Philatô dễ kết án Người.

    6. Quan tổng trấn Philatô tỏ ra là một người bạc nhược, khiếp sợ trước sức ép của dân chúng. Ông không muốn can thiệp, đứng về lẽ phải, dù ông biết rõ Chúa Giêsu chẳng có tội gì. Để khỏi nhọc công, ông đùn đẩy vụ việc sang vua Hêrôđê. Cuối cùng, dù thừa biết Chúa Giêsu chẳng có tội gì, và thừa biết do sự ghen tức mà các vị lãnh đạo dân Do-thái đã nộp Người cho mình, Philatô đã cho đánh đòn để thị uy, rồi cho giết Người để làm vui lòng dân chúng.

    7. Vua Hêrôđê gặp Chúa Giêsu thì mừng lắm, nhưng thực ra ông chỉ mong xem một vài phép lạ Chúa làm cho vui, để thỏa chí tò mò. Ông tỏ ra mình là người biết điều tra. Ông hỏi nhiều điều. Nhưng khi Chúa không trả lời, vua và thị vệ đều khinh dể Người ra mặt, khoác cho Chúa một chiếc áo rực rỡ mà chế giễu, như thể xem Người là người khờ khạo, chẳng biết gì, hỏi gì cũng chẳng biết đối đáp.

    Qua những nhân vật khác nhau, qua những hình ảnh tương phản, trình thuật Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu như muốn làm nổi bật:

    1. Chiến thắng của tình yêu Chúa Giêsu trên lòng hận thù của các thượng tế, kinh sư, và các kỳ mục

    2. Chiến thắng của lòng thành tín nơi Chúa Giêsu trên sự phản bội của Giuđa

    3. Chiến thắng của sự can trường nơi Chúa Giêsu trên sự khiếp nhược của Phêrô

    4. Chiến thắng của sự thật trên sự mù quáng chính trị và thói mị dân của Philatô

    5. Chiến chắng của lòng quả cảm và sự khiêm hạ nơi Chúa Giêsu trên sự hung tàn của các người lính Rôma

    6. Chiến thắng của sự tha thứ nơi Chúa Giêsu trên sự nhục mạ của tên trộm dữ, của bao kẻ qua lại dưới thánh giá.

    7. Chiến thắng của ánh sáng trên bóng tối sự chết; của sự thiện trên sự dữ.

    Trong Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, thánh sử Luca cho chúng ta thấy vẫn có những người đang âm thầm được tình yêu, sự khiêm hạ tột cùng, và sự tha thứ của Chúa Giêsu thuyết phục và cảm hóa: ông Simon người Kyrênê; các phụ nữ thành Giêrusalem; người trộm lành; viên đại đội trưởng; của bao người đã biết đấm ngực ăn năn; của ông Giuse, người thành Arimathea, v.v.

    Nguồn tin:  https://tgpsaigon.net/

    Bài viết liên quan