Tông thư Sự trung tín tạo nên tương lai của Đức Thánh cha Lêô XIV nhân dịp kỷ niệm 60 năm các sắc lệnh công đồng Optatam Totius và Presbyterorum Ordinis

  • 26/12/2025 21:35
  • WHĐ (25/12/2025) - Nhân dịp kỷ niệm 60 năm các sắc lệnh công đồng Optatam Totius và Presbyterorum Ordinis, Đức Thánh cha Lêô XIV đã công bố Tông thư mang tên “Sự trung tín tạo nên tương lai”. Tông thư này, được ký vào ngày 08/12 và phổ biến vào ngày 22/12 vừa qua, là một bản tái định nghĩa mạnh mẽ về căn tính linh mục giữa những thách đố của thời đại. Sau đây là toàn văn Tông thư bản dịch Việt ngữ do Ủy ban Giáo sĩ và Chủng sinh thực hiện.

    Dẫn nhập

    Trung tín và phục vụ

    Trung tín và tình huynh đệ

    Trung tín và hiệp hành

    Trung tín và sứ vụ

    Trung tín và tương lai

    TÔNG THƯ

    SỰ TRUNG TÍN TẠO NÊN TƯƠNG LAI

    CỦA ĐỨC THÁNH CHA LÊÔ XIV

    NHÂN DỊP KỶ NIỆM 60 NĂM CÁC SẮC LỆNH CÔNG ĐỒNG

    OPTATAM TOTIUS VÀ PRESBYTERORUM ORDINIS

    Dẫn nhập

    1. Sự trung tín, sẽ tạo nên tương lai, là điều mà các linh mục được mời gọi ngày nay. Việc trân trọng giá trị của sự bền bỉ trong sứ vụ tông đồ cho chúng ta cơ hội suy tư về tương lai sứ vụ của chúng ta và giúp người khác cảm nghiệm niềm vui của ơn gọi linh mục. Kỷ niệm 60 năm Công đồng Vaticanô II, diễn ra trong Năm Thánh này, là dịp để chúng ta chiêm ngắm lại hồng ân về sự trung tín trổ sinh hoa trái, và nhớ lại giáo huấn của hai Sắc lệnh Optatam Totius và Presbyterorum Ordinis, được ban hành lần lượt vào ngày 28 tháng 10 và 07 tháng 12 năm 1965. Hai văn kiện này đều được khai sinh do sự linh hứng của Giáo hội, một Giáo hội được mời gọi trở nên dấu chỉ và khí cụ của sự hiệp nhất cho mọi dân tộc cũng như bị thách thức phải tự canh tân, luôn ý thức rằng: “Việc canh tân mong đợi của toàn thể Giáo hội tùy thuộc phần lớn vào thừa tác vụ linh mục vốn được sống động nhờ thần khí của Đức Kitô.”[1]

    2. Chúng ta không chỉ đơn thuần gợi nhớ một kỷ niệm. Thật vậy, cả hai văn kiện đều được đặt nền vững chắc trên sự hiểu biết: Giáo hội là Dân Chúa đang lữ hành trong lịch sử. Các bản văn cũng đánh dấu một mốc son trong suy tư thần học về bản chất và sứ mạng của thừa tác vụ linh mục và sự chuẩn bị cho thừa tác vụ ấy, và cho đến nay, chủng vẫn giữ nguyên tính mới mẻ và thời sự. Vì thế, tôi mời gọi anh chị em tiếp tục đọc và học hỏi các văn kiện này trong các cộng đoàn Kitô hữu, đặc biệt tại các chủng viện và mọi nơi chuấn bị và đào tạo thừa tác vụ chức thánh.

    3. Hai Sắc lệnh Optatam Totius và Presbyterorum Ordinis, bám rễ chắc chắn nơi truyền thống giáo lý của Giáo hội về Bí tích Truyền chức thánh, đã cho thấy sự suy tư cẩn trọng của Công đồng về chức linh mục thừa tác và bày tỏ mối quan tâm sâu sắc dành cho các linh mục. Mục tiêu là xây dựng bộ khung cần thiết để đào tạo các thế hệ linh mục tương lai phù hợp với sự đổi mới được Công đồng cổ võ, và để duy trì căn tính linh mục, đồng thời cũng nhấn mạnh các viễn tượng mới và tích hợp các suy tư trước đó, nhằm phát triển giáo lý đúng đắn.[2] Vì thế, chúng ta phải giữ cho ký ức này luôn sống động bằng cách đón nhận sứ mạng mà các Sắc lệnh ấy trao phó cho toàn thể Giáo hội. Điều đó đòi hỏi việc canh tân thừa tác vụ linh mục mỗi ngày, kín múc sức mạnh từ cội rễ của nó, tức mối dây liên kết giữa Đức Kitô và Giáo hội, để trở thành những môn đệ thừa sai theo tâm tình của Người, được liên kết với toàn thể tín hữu và phục vụ họ.

    4. Đồng thời, trong sáu thập kỷ kể từ Công đồng, nhân loại đã và đang trải qua nhiều thay đổi sâu sắc. Điều này đòi hỏi sự lượng giá liên lỉ con đường đã đi qua và đào sâu cách chắc chắn các giáo huấn của Công đồng. Cùng với việc đó, trong những năm gần đây, Giáo hội dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần phát triển giáo huấn của Công đồng về bản chất hiệp thông của mình theo chiều kích hiệp hành và sứ vụ.[3] Với ý hướng đó, tôi gửi Tôngthư này đến toàn thể Dân Chúa, để cùng nhau nhìn lại căn tính và chức năng của thừa tác vụ chức thánh trong ánh sáng về việc Chúa đang đòi hỏi Giáo hội hôm nay điều gì, và tiếp tục công cuộc canh tân vĩ đại do Công đồng Vaticanô II khởi xướng. Để đáp trả cách hân hoan lời mời gọi của Chúa Giêsu, tôi đề nghị thực hiện điều này dưới lăng kính của sự trung tín, vừa là ân ban của Thiên Chúa vừa là hành trình hoán cải liên lỉ. Tôi ước muốn bắt đầu bằng việc bày tỏ lòng biết ơn của tôi đối với chứng tá và sự tận hiến của tất cả các linh mục trên toàn thế giới, những người đã hiến dâng cuộc đời mình trong việc cử hành hy tế Thánh Thể, công bố Lời Chúa và giải tội, cũng như việc dấn thân quảng đại mỗi ngày cho anh chị em mình, nhằm nuôi dưỡng sự hiệp thông và hiệp nhất giữa họ và chăm sóc đặc biệt những người đau khổ nhất và túng thiếu.

    Trung tín và phục vụ

    5. Mọi ơn gọi trong Giáo hội đều khởi đi từ sự gặp gỡ cá vị với Đức Kitô, một sự gặp gỡ “đem đến cho cuộc sống một chân trời mới và một hướng đi quyết định.”[4] Trước bất kỳ sự dấn thân, nguyện vọng cá nhân hay phục vụ nào, luôn có tiếng gọi của Thầy: “Hãy theo Thầy” (Mc 1,17). Chúa của sự sống biết rõ chúng ta và soi sáng tâm hồn chúng ta với ánh mắt yêu thương của Người (x. Mc 10,21). Đây không chỉ là một tiếng nói nội tâm, nhưng là một thúc đẩy thiêng liêng thường đến với chúng ta qua gương sáng của những môn đệ khác của Chúa và định hình trong một chọn lựa sống can đảm. Sự trung tín với ơn gọi, đặc biệt trong những lúc thử thách và cám dỗ, được củng cố khi chúng ta không quên tiếng gọi ấy, khi chúng ta ghi nhớ hết lòng tiếng gọi của Chúa là Đấng yêu thương, tuyển chọn và kêu gọi chúng ta, và khi chúng ta phó thác chính mình cho sự đồng hành không thể thiếu của những người có kinh nghiệm trong đời sống thiêng liêng. Qua dòng thời gian, âm vang của lời Chúa là nguyên lý của sự hiệp nhất nội tâm với Chúa Kitô, đây là điều căn bản và thiết yếu cho đời sống tông đồ.

    6. Ơn gọi hướng đến thừa tác vụ chức thánh là một hồng ân nhưng không và tự do của Thiên Chúa. Thật vậy, ơn gọi không bị Thiên Chúa áp đặt, nhưng là một dự án yêu thương nhằm theo đuối một kế hoạch cứu độ và tự do cho đời mình, đây là dự án chúng ta nhận lãnh khi chúng ta, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, chấp nhận Chúa Giêsu là trung tâm của đời mình. Vì thế, ơn gọi hướng đến thừa tác vụ chức thánh trở nên như quà tặng chính mình cho Thiên Chúa, và như vậy, cho Dân thánh của Ngài. Toàn thể Giáo hội cầu nguyện và hân hoan với tâm hồn tràn đầy hy vọng và tri ân vì quà tặng này. Điều này đã được Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI diễn tả khi kết thúc Năm Thánh Linh Mục: “Chúng tôi mong muốn khơi lại niềm vui vì Thiên Chúa quá gần gũi với chúng tôi, và khơi lại lòng biết ơn vì Ngài trao phó chính mình cho những yếu đuối của chúng tôi; và vì Ngài hướng dẫn và nâng đỡ chúng tôi mỗi ngày. Theo cách này, chúng tôi cũng mong muốn chứng tỏ một lần nữa cho các bạn trẻ rằng ơn gọi này, sự theo đuổi phục vụ cho Thiên Chúa và với Thiên Chúa, thật sự tồn tại – và rằng Thiên Chúa thực sự đang chờ chúng ta nói ‘xin vâng’”.[5]

    7. Mọi ơn gọi đều là hồng ân của Chúa Cha, nó cần được gìn giữ trung tín trong một tiến trình hoán cải liên lỉ. Chu toàn lời mời gọi được chăm bón mỗi ngày qua việc lắng nghe Lời Chúa, qua cử hành các bí tích, đặc biệt là Hy tế Thánh Thể, qua công cuộc loan báo Tin Mừng, qua sự gần gũi với những người bé mọn nhất, và qua tình huynh đệ linh mục – tất cả đều kín múc từ cầu nguyện là nơi ưu tiên để gặp gỡ Chúa, như kiểu mỗi ngày linh mục trở lại Biển Hồ Galilê, nơi Chúa Giêsu hỏi Phêrô: “Anh có yêu mến Thầy không?” (Ga 21,15), để tái khẳng định lời “xin vâng” của bản thân.[6] Theo nghĩa này, chúng ta có thể hiểu được niềm hy vọng trong Optatam Totius diễn giải, theo đó đào tạo linh mục không được chấm dứt khi kết thúc chủng viện (x. số 22), khác hơn nó mở ra con đường đào tạo thường xuyên và liên tục, một con đường tạo nên một động lực canh tân liên lỉ về nhân bản, thiêng liêng, trí thức và mục vụ.

    8. Vì thế, tất cả các linh mục được kêu gọi không ngừng nuôi dưỡng việc đào tạo chính mình để gìn giữ cách sống động hồng ân Thiên Chúa mà mình đã lãnh nhận qua bí tích Truyền Chức (x. 2 Tm 1,6). Do đó, sự trung tín với ơn gọi không bất động và khép kín, nhưng là một hành trình hoán cải mỗi ngày nhằm củng cố và làm chín chắn ơn gọi đã lãnh nhận. Theo hướng này, cần cổ võ những sáng kiến chẳng hạn như Hội nghị Thường Huấn Linh mục, được tổ chức tại Vatican từ ngày 6 đến 10 tháng 2 năm 2024, dã quy tụ hơn 800 người phụ trách thường huấn đến từ 80 quốc gia. Trước khi là một cuộc tập huấn trí thức hay mục vụ, thường huấn là một ký ức sống động và một sự canh tân liên lỉ về ơn gọi của một con người trên một hành trình được sẻ chia.

    9. Từ thời điểm được kêu gọi và trong suốt giai đoạn đào tạo ban đầu, vẻ đẹp và sự bền vững của hành trình được bảo đảm nhờ theo Chúa Kitô (sequela Christi). Thật vậy, ngay trước khi hiến mình để hướng dẫn đoàn chiên, mỗi linh mục phải luôn ghi nhớ rằng chính bản thân là môn đệ của Thầy, giống như các anh chị em khác, bởi vì “người ta luôn luôn là ‘môn đệ’ suốt cả cuộc đời, không ngừng khao khát nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô.”[7] Chỉ có tương quan của môn đệ trung tín và vâng phục này mới có thể giữ cho trí lòng theo đúng hướng giữa những biến động của cuộc sống.

    10. Trong những thập kỷ gần đây, sự khủng hoảng niềm tin vào Giáo hội do các vụ lạm dụng của một số giáo sĩ đã khiến chúng ta xấu hổ và mời gọi chúng ta sống khiêm nhường. Điều này càng làm cho chúng ta ý thức hơn nhu cầu cấp bách về đào tạo toàn diện, nhằm bảo đảm sự phát triển và trưởng thành cá nhân của các ứng viên linh mục, cùng với một đời sống thiêng liêng phong phú và vững chắc.

    11. Một vấn đề đào tạo cũng quan trọng là cần diễn giải hiện tượng những người, sau vài năm hoặc thậm chí vài thập kỷ, rời bỏ thừa tác vụ chức thánh. Thực tại đau lòng này không nên chỉ được nhìn dưới góc độ pháp lý, nhưng đòi chúng ta nên nhìn cuộc đời của những anh em ấy và những nguyên nhân đã dẫn họ đến quyết định đó cách cẩn trọng và khoan dung. Cách giải quyết thích hợp là, trước hết và trên hết, một sự cam kết được làm mới lại cho việc đào tạo, đối tượng của việc đào tạo là “một hành trình tăng trưởng trong sự thân mật với Chúa. Nó bao hàm toàn bộ con người, con tim, trí tuệ và tự do, để uốn nắn người ấy theo hình ảnh của Mục Tử Nhân Lành.”[8]

    12. Vì thế, “chủng viện có nghĩa là một mảnh đất huấn luyện giúp một chủng sinh biết lưu tâm đến chính con tim mình… chúng ta cần học cách yêu thương và hành động như Chúa Giêsu.” Do đó, tôi mời gọi các chủng sinh thực hiện một cam kết nội tâm liên quan đến động lực ơn gọi của mình. Điều này bao hàm mọi khía cạnh của đời sống, bởi vì “không đặc điểm nào nơi tính cách độc đáo của anh em bị loại bỏ; khác hơn, mọi đặc điểm đều phải được đón nhận và biến đổi, giống như hạt lúa mì trong Tin Mừng. Mục tiêu là trở thành một con người vui tươi và một linh mục vui tươi, một ‘nhịp cầu’ chứ không phải là chướng ngại cho những ai đến với anh em để đến với Đức Kitô.”[9] Chỉ có những linh mục và những người thánh hiến trưởng thành về nhân bản và vững vàng về thiêng liêng – nói cách khác, những người tích hợp các chiều kích nhân bản và thiêng liêng cách hiệu quả và vì thế họ có khả năng tương quan đích thực với với mọi người – mới có thể đảm nhận cam kết sống độc thân và loan báo Tin Mừng Phục Sinh cách đáng tin cậy.

    13. Điều này đòi hỏi việc gìn giữ và nuôi dưỡng ơn gọi qua một hành trình hoán cải liên lỉ và trung tín được canh tân, hành trình này không bao giờ là một con đường thuần túy cá nhân, nhưng luôn úy thác chúng ta trong việc chăm sóc lẫn nhau. Động lực này luôn là công trình của ân sủng bao bọc nhân tính mỏng mạnh của chúng ta. và chữa lành nó khỏi chủ nghĩa vị kỷ và sự ích kỷ. Với đức tin, đức cậy và đức mến, chúng ta được mời gọi theo Chúa Kitô mỗi ngày, đặt trọn niềm tín thác nơi Chúa. Hiệp thông, hiệp hành và sứ vụ không thể đạt được nếu, trong tâm hồn các linh mục, cám dỗ quy hướng bản thân không nhường chỗ cho thái độ lắng nghe và phục vụ. Như Đức Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh: “Linh mục là một tôi tớ của Chúa Kitô, theo nghĩa là sự hiện hữu của linh mục, được đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô về mặt bản thể, chứa một đặc tính liên hệ cốt lõi: linh mục ở trong Chúa Kitô, vì Chúa Kitô và với Chúa Kitô, để phục vụ nhân loại. Bời vì thuộc về Chúa Kitô, linh mục hoàn toàn phục vụ mọi người: linh mục là thừa tác viên của ơn cứu độ, hạnh phúc và sự giải thoát đích thực của mọi người, phát triển điều này trong sự đón nhận từng bước thánh ý của Chúa Kitô, trong cầu nguyện, trong sự ‘hiện hữu thân tình’ với Người.”[10]

    Trung tín và tình huynh đệ

    14. Công đồng Vaticanô II đã đặt việc phục vụ đặc thù của linh mục trong tình huynh đệ và phẩm giá bình đẳng của mọi người đã chịu Phép Rửa, như Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis chỉ rõ: “Mặc dù các linh mục của Giao Ước mới, nhờ bí tích Truyền Chức, thi hành chức năng cao cả và bản chất của người cha và người thầy nơi Dân Chúa và thay mặt cho dân, nhưng các linh mục vẫn là môn đệ của Chúa cùng với mọi tín hữu và đã được tham dự vào Nước Chúa, Đấng đã kêu gọi họ bằng ân sủng của Ngài. Các linh mục, cùng với tất cả những người được tái sinh trong Phép Rửa, là anh em giữa các anh chị em như những chi thể của cùng một Thân Thể Chúa Kitô, mà tất cả được truyền lệnh phải xây nên.”[11] Tình huynh đệ nền tảng này bám rễ từ trong Phép Rửa và liên kết toàn thể Dân Chúa. Đồng thời, Công đồng nhấn mạnh mối dây huynh đệ đặc biệt giữa các thừa tác viên chức thánh, được đặt nền tảng trong chính bí tích Truyền Chức Thánh: “Tất cả các linh mục, được phong chức nhờ bí tích Truyền Chức, được liên kết với nhau bằng một tình huynh đệ bí tích mật thiết; nhưng theo một cách thức đặc biệt, họ tao nên linh mục đoàn trong giáo phận mà họ thuộc về dưới quyền giám mục của mình, họ tạo thành một linh mục đoàn duy nhất… Mỗi người được liên kết với các thành viên khác của linh mục đoàn bằng những mối dây đặc biệt của đức ái tông đồ, của thừa tác vụ và của tình hiệp thông.”[12] Do đó, trước khi là một nhiệm vụ phải thực hiện, tình huynh đệ linh mục trước hết là món quà tự thân đối với hồng ân thánh chức. Chúng ta phải nhìn nhận rằng món quà này có trước chúng ta. Nó không chỉ được xây dựng bằng thiện chí hay nỗ lực tập thể, nhưng là món quà của ân sủng, nó cho phép chúng ta tham dự vào thừa tác vụ của giám mục và được nhận biết trong sự hiệp thông với ngài và với các linh mục anh em.

    15. Tuy nhiên, chính vì lý do này, các linh mục được mời gọi đáp lại ân sủng của tình huynh đệ bằng cách thể hiện và xác nhận qua đời sống mình điều được mong đợi từ họ, không chỉ bởi ân sủng Phép Rửa mà còn bởi bí tích Truyền Chức. Trước hết, trung tín với sự hiệp thông có nghĩa là vượt thắng cám dỗ chủ nghĩa cá nhân, vì điều này không tương hợp với hoạt động thừa sai và loan báo Tin Mừng, vốn luôn cho thấy Giáo hội như là một toàn thể. Không phải ngẫu nhiên mà Công đồng Vaticanô II hầu như luôn nói về các linh mục ở số nhiều – không có linh mục nào tồn tại một mình! Chính Chúa “đã chọn Nhóm Mười Hai, cũng gọi tên là tông đồ, để các ông ở với Người” (Mc 3,14). Điều này có nghĩa là không có thừa tác vụ nào tồn tại ngoài sự hiệp thông với Chúa Giêsu Kitô và với Thân Thể của Người là Giáo hội. Ý thức rằng sự hiệp nhất của Giáo hội phát xuất từ “sự hiệp nhất của Cha, Con và Thánh Thần,”[13] làm cho chiều kích thân hữu và hiệp thông của thừa tác vụ chức thánh ngày càng trở nên hữu hình là một trong những thách đố chính cho tương lai, đặc biệt trong một thế giới đang nhuốm màu chiến tranh, chia rẽ và bất hòa.

    16. Do đó, tình huynh đệ linh mục phải được xem là một yếu tố cấu thành căn tính của các thừa tác viên[14] không chỉ như một lý tưởng hay khẩu hiệu, nhưng như một thực tại được theo đuổi với nghị lực mới. Theo nghĩa này, nhiều điều đã được thực hiện khi áp dụng các khuyến nghị của Presbyterorum Ordinis (x. số 8), nhưng vẫn còn nhiều điều phải làm, bắt đầu chẳng hạn với việc cân bằng lợi ích giữa những người phục vụ tại các giáo xứ nghèo và những người thi hành thừa tác vụ trong các cộng đoàn giàu có. Cũng cần lưu ý rằng, tại nhiều quốc gia và giáo phận, các nhu yếu phẩm cho lúc đau yếu và tuổi già vẫn chưa được đảm bảo đầy đủ. Việc chăm sóc lẫn nhau – đặc biệt là sự quan tâm đến những anh em cô đơn và cô độc, cũng như những người đau yếu và cao tuổi – không thể bị xem là kém quan trọng hơn việc chăm sóc Dân Chúa được trao phó cho chúng ta. Đây là một trong những điểm căn bản mà tôi đã khuyến dụ các linh mục nhân dịp Năm Thánh gần đây của họ: “Làm sao chúng ta, với tư cách là thừa tác viên, có thể trở nên những người xây dựng các cộng đoàn sống động nếu chúng ta không sống tinh thần huynh đệ đích thực giữa chúng ta với nhau?”[15]

    17. Trong nhiều bối cảnh, đặc biệt tại phương Tây, những thách đố mới đang xuất hiện trong đời sống linh mục liên quan đến sự phân mảnh và cơ động hiện đại của xã hội. Điều này có nghĩa là các linh mục không còn thuộc về một cộng đoàn gắn kết và chung niềm tin từng nâng đỡ các linh mục như trước đây. Hệ quả là, họ đối mặt nhiều hơn với nguy cơ cô đơn, vốn làm suy giảm nhiệt huyết tông đồ và có thể dẫn đến sự co cụm buồn bã với chính mình. Chính vì lý do này, theo các chỉ dẫn từ các vị Tiền nhiệm của tôi[16], tôi hy vọng rằng trong mọi Giáo hội địa phương sẽ xuất hiện một cam kết canh tân nhằm hỗ trợ và cổ võ những hình thức khả thi về đời sống cộng đoàn“để giúp các linh mục tìm được sự nâng đỡ lẫn nhau trong việc nuôi dưỡng đời sống trí thức và thiêng liêng, tăng cường sự hợp tác nhiều hợn giữa họ trong sứ vụ, và bảo vệ họ khỏi những nguy cơ có thể nảy sinh từ sự cô đơn.”[17]

    18. Mặt khác, cần nhớ rằng sự hiệp thông linh mục không bao giờ được thiết lập bằng cách tiêu chuẩn hóa các cá nhân và các đặc sủng hay các tài năng mà Chúa đã ban cho mỗi người. Dựa trên sự phân định của giám mục, điều quan trọng là phải có sự quân bình trong linh mục đoàn giáo phận giữa việc trân trọng các ân huệ này và việc bảo toàn sự hiệp thông. Trong viễn tượng này, tiến trình hiệp hành có thể giúp mọi người trưởng thành tâm linh qua việc đón nhận các đặc sủng khác nhau trong một tổng thể mà nó làm vững chắc sự hiệp thông của linh mục đoàn, trong khi trung thành với Tin Mừng và giáo huấn của Giáo hội. Vào thời gian bất ổn sâu sắc, mọi thừa tác viên chức thánh được mời gọi sống hiệp thông bằng cách trở về với điều cốt lõi và gần gũi với con người, để gìn giữ niềm hy vọng được định hình trong sự phục vụ khiêm tốn và cụ thể. Trong bối cảnh này, thừa tác vụ phó tế vĩnh viễn, được đồng hình đồng dạng với Đức Kitô Tôi Tớ, là một dấu chỉ sống động về một tình yêu không hời hợt nhưng biết cúi xuống, lắng nghe và trao ban quảng đại. Vẻ đẹp của Giáo hội trở thành một bằng chứng về sự hiệp thông, khi được tô điểm nhờ các linh mục và phó tế biết cộng tác và được hiệp nhất do lòng nhiệt thành vì Tin Mừng và sự quan tâm tới những người đang cần giúp đỡ nhất. Theo lời Chúa Giêsu (x. Ga 13,34–35), việc loan báo Tin mừng Kitô giáo nhận được uy tín và sức mạnh là do chính sự hiệp nhất này, một sự hiệp nhất bắt nguồn từ trong tình yêu huynh đệ,. Vì thế, thừa tác vụ phó tế, đặc biệt khi được sống trong hiệp thông với gia đình mình, là một hồng ân cần được hiểu, trân trọng và nâng đỡ. Sự phục vụ âm thầm nhưng thiết yếu của những người hiến thân cho bác ái nhắc nhở chúng ta rằng sứ vụ không được thực hiện nhờ những hành động lớn lao, nhưng nhờ lòng nhiệt thành duy nhất vì Nước Trời và sự trung tín hằng ngày với Tin Mừng.

    19. Một biểu tượng hạnh phúc và hào hùng về sự trung tín với hiệp thông là linh mục đoàn, đây là điều được thánh Inhaxiô thành Antiokia giới thiệu cách rõ ràng trong Thư của thánh nhân gởi tín hữu Êphêsô: “Anh em cùng sống với nhau trong sự hòa hợp với tinh thần của giám mục là điều phải lẽ, giống như anh em thực sự đang làm. Linh mục đoàn chỉ xứng đáng với tên gọi và với Chúa khi hòa điệu với giám mục như dây với cây đàn. Vì thế, trong sự đồng thuận và tình yêu hài hòa, Chúa Giêsu Kitô được ca vang… Do đó, điều lợi ích cho anh em là ở trong sự hiệp nhất trọn vẹn, để anh em luôn có thể có một sự chung chia trong Chúa.”[18]

    Trung tín và hiệp hành

    20. Bây giờ tôi xin đề cập đến một điểm đặc biệt gần gũi với con tim tôi. Khi nói về căn tính của linh mục, Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis trước hết nhấn mạnh mối liên kết giữa chức linh mục và sứ vụ của Chúa Giêsu Kitô (x. số 2), sau đó chỉ ra ba chiều kích nền tảng. Đầu tiên là mối tương quan với giám mục, đây là người coi các linh mục như “những người trợ giúp và cố vấn không thể thiếu”, và duy trì mối quan hệ huynh đệ và thân tình với các linh mục (x. số 7). Thứ đến là sự hiệp thông bí tích và tình huynh đệ với các linh mục khác, để cùng nhau họ đóng góp vào “cùng một công trình” và thi hành “một thừa tác vụ linh mục duy nhất”, tất cả làm việc “hướng về một mục tiêu”, ngay cả khi được giao phó những nhiệm vụ khác nhau (x. số 8). Sau cùng, có mối tương quan với giáo dân, với trách nhiệm đặc biệt của mình, giữa giáo dân, các linh mục là những người anh em chia sẻ cùng giá trị Phép Rửa, kết hợp “nỗ lực của các linh mục với nỗ lực của giáo dân” và hưởng lợi từ “kinh nghiệm và năng lực của họ trong các lãnh vực khác nhau của hoạt động con người. Theo cách này, các linh mục có thể nhận ra các dấu chỉ của thời đại.” Thay vì tìm cách thống trị hay tự mình gánh lấy mọi công việc, các linh mục “phải khám phá bằng đức tin các đặc sủng khiêm tốn và cao quý khác nhau của giáo dân, trong số các ân sủng khác nhau của Chúa được tìm thấy dồi dào nơi các tín hữu” (x. số 9)

    21. Trong lãnh vực này, vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Động lực của tiến trình hiệp hành là một lời mời gọi mạnh mẽ của Chúa Thánh Thần để thực hiện những bước quyết định theo hướng này. Vì thế, tôi tái khẳng định mong muốn “mời gọi các linh mục… bằng cách nào đó mở lòng mình và tham gia vào các tiến trình này”[19] mà chúng ta đang thực hiện. Về điểm này, Khóa họp thứ hai của Đại hội Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XVI, trong Văn kiện Chung kết của mình[20], đã đề nghị một sự hoán cải các mối tương quan và các tiến trình. Điều thiết yếu là, trong mọi Giáo hội địa phương, những sáng kiến thích hợp phải được bảo đảm để chính các linh mục có thể làm quen với các nguyên tắc định hướng của Văn kiện này và kinh nghiệm về sự phong phú từ một cách sống hiệp hành của Giáo hội.

    22. Tất cả những điều này đòi hỏi việc đào tạo ở mọi cấp độ, đặc biệt trong giai đoạn đào tạo ban đầu và đào tạo thường xuyên của các linh mục. Trong một Giáo hội loan báo Tin mừng và hiệp hành nhiều hơn, thừa tác vụ linh mục không hề mất đi tầm quan trọng hay ý nghĩa của mình. Trái lại, thừa tác vụ ấy có thể tập trung hơn vào các nhiệm vụ đặc thù và riêng biệt của mình. Thách đố của tính hiệp hành không loại bỏ sự khác biệt nhưng trân trọng chúng; đồng thời, thách đố này vẫn là một trong những cơ hội chính cho các linh mục tương lai. Như Văn kiện Chung kết nói trên nhắc nhớ: “Các linh mục được mời gọi sống thừa tác vụ của mình trong tinh thần gần gũi với dân chúng, sẵn sàng đón tiếp và biết lắng nghe mọi người, mở ra với một cách sống hiệp hành” (số 72). Để thực hiện một nền Giáo hội hiệp thông ngày càng hiệu quả hơn bao giờ hết, thừa tác vụ linh mục cần vượt ra ngoài khuôn mẫu lãnh đạo độc quyền, mà nó dẫn đến việc tập trung các hoạt động mục vụ và gánh nặng mọi trách nhiệm được đùn đẩy vào một mình linh mục. Thay vào đó, thừa tác vụ ấy nên hướng đến một sự lãnh đạo tập thể ngày càng tăng, nhờ sự cộng tác giữa các linh mục, phó tế và toàn thể Dân Chúa tạo nên sự phong phú cho nhau, mà nó vốn là hoa trái của các đặc sủng đa dạng được Chúa Thánh Thần ban tặng. Như Tông huấn Evangelii Gaudium nhắc nhở, chức linh mục thừa tác và sự đồng hình đồng dạng với Đức Kitô – Đấng Lang Quân – không được dẫn chúng ta tới việc đồng hóa quyền bính bí tích với quyền lực, bởi vì “sự đồng hình của linh mục với Đức Kitô là Đầu, nghĩa là nguồn mạch chính yếu của ân sủng, không hàm ý một sự tôn vinh đặt linh mục lên trên những người khác.”[21]

    Trung tín và sứ vụ

    23. Căn tính của các linh mục được xây dựng quanh việc hiện hữu cho người khác, căn tính này gắn liền cách không thể tách rời với sứ vụ của họ. Thật vậy, người nào “cố gắng tìm kiếm căn tính linh mục của mình qua việc tự vấn và nội tâm hóa có thể gặp được không gì khác ngoài các dấu chỉ ‘ra đi’, các dấu chỉ nói rằng: hãy ra đi khỏi chính mình, hãy ra đi tìm kiếm Thiên Chúa trong việc thờ phượng, hãy ra đi và trao ban cho dân của bạn điều đã được ủy thác cho bạn; vì chính dân của bạn sẽ làm cho bạn cảm nghiệm và nếm trải bạn là ai, tên bạn là gì, căn tính của bạn là gì, và họ sẽ làm cho bạn vui hưởng gấp trăm lần điều Chúa đã hứa cho những ai phục vụ Người. Nếu bạn không ‘ra đi’ khỏi chính mình, dầu thánh trở nên bốc mùi và việc xức dầu sẽ không còn sinh hoa trái.”[22] Thánh Gioan Phaolô II đã dạy rằng: “Trong Giáo hội và nhân danh Giáo hội, các linh mục là đại diện mang tính bí tích của Chúa Giêsu Kitô – Thủ Lãnh và Mục Tử – công bố Lời Người với thẩm quyền, lặp lại các hành vi tha thứ và trao ban ơn cứu độ của Người – đặc biệt trong Bí tích Rửa Tội, Hòa Giải và Thánh Thể – và biểu lộ sự quan tâm yêu thương của Người đến mức hiến trao trọn vẹn bản thân vì đoàn chiên, nhằm quy tụ họ trong sự hiệp nhất và dẫn đưa họ đến với Chúa Cha nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Thánh Thần.”[23] Do đó, ơn gọi linh mục triển nở trong những niềm vui và nỗ lực của sự phục vụ khiêm tốn cho anh chị em mình – những người không luôn được thế gian trân trọng nhưng có một khao khát gặp gỡ các chứng nhân đáng tin cậy về tình yêu trung tín và xót thương của Thiên Chúa. Đây chính là cách loan báo Tin Mừng chính yếu.

    24. Thế giới đương đại của chúng ta, được đặc trưng bởi nhịp sống nhanh và nhu cầu kết nối liên tục, thường khiến chúng ta cảm giác bị thúc ép và có xu hướng duy hoạt động. Từ đó nảy sinh ít nhất hai cám dỗ làm suy yếu sự trung tín với sứ vụ. Cám dỗ thứ nhất là não trạng duy hiệu quả, theo đó giá trị của mỗi người được đo bằng năng suất, tức là, số lượng hoạt động và dự án được hoàn thành. Theo lối nghĩ này, điều bạn làm được đến trước điều bạn là, và đảo lộn trật tự đích thực của căn tính thiêng liêng. Trái lại, cám dỗ thứ hai biểu hiện như một thứ duy an phận. Bị sợ hãi trước hoàn cảnh đối diện, chúng ta thu mình lại, từ chối thách đố loan báo Tin Mừng và khác hơn, dung túng một thái độ lười biếng và bi quan. Ngược lại, một sứ vụ vui tươi và nhiệt huyết, dù nhiều yếu đuối phận người, vẫn có thể và phải dấn thân loan báo Tin Mừng cho mọi chiều kích của xã hội, đặc biệt văn hóa, kinh tế và chính trị, để mọi sự được quy tụ trong Đức Kitô (x. Ep 1,10). Để vượt qua hai cám dỗ này và sống một sứ vụ vui tươi và trổ sinh hoa trái, mỗi linh mục phải trung tín với sứ vụ mình đã lãnh nhận, tức là, với món quà ân sủng được giám mục trao ban qua việc truyền chức linh mục. Trung tín với sứ vụ có nghĩa là tuân theo kiểu mẫu được Thánh Gioan Phaolô II truyền lại, khi ngài nhắc nhở rằng đức ái mục tử là nguyên lý hiệp nhất đời sống linh mục.[24] Chính nhờ giữ cho ngọn lửa đức ái mục tử – tình yêu của Mục Tử Nhân Lành – luôn bừng cháy, mỗi linh mục mới có thể tìm được sự quân bình trong đời sống hằng ngày và biết phân định điều gì là ích lợi, điều gì là đặc thù của thừa tác vụ, theo giáo huấn của Giáo hội.

    25. Sự hài hòa giữa chiêm niệm và hoạt động phải được tìm kiếm không do đón nhận vội vã các kế hoạch hoạt động hay một việc cân bằng đơn giản các hoạt động, nhưng do việc đặt chiều kích Vượt Qua vào trung tâm của sứ vụ. Tuy nhiên, việc tự hiến trọn vẹn không thể và phải không được hiểu là từ bỏ cầu nguyện, học hỏi hay tình huynh đệ linh mục. Trái lại, cầu nguyện trở thành chân trời trong đó mọi sự liên quan đều được quy hướng về Chúa Giêsu, Đấng đã chết và sống lại để cứu độ thế gian. Theo cách này, các lời hứa khi chịu Chức Thánh cũng được chu toàn; cùng với sự từ bỏ của cải vật chất, các linh mục nuôi dưỡng trong tâm hồn linh mục một sự kiếm tìm bền bỉ và gắn bó với thánh ý Thiên Chúa, nhờ đó họ để cho Chúa Kitô chiếu sáng qua mọi hành động của họ. Ví dụ, điều này xảy ra khi vị linh mục cố gắng tránh xa mọi hình thức vị kỷ và tự đề cao bản thân, dù phải chia sẻ về bản thân khi vai trò linh mục thường đòi hỏi. Được đào luyện bởi mầu nhiệm mà mình cử hành trong phụng vụ thánh, mỗi linh mục phải “di chuyển sang bên cạnh để Chúa Kitô có thể ở lại, làm cho mình nhỏ bé để Người được nhận biết và tôn vinh (x. Ga 3,30), hiến mình đến cùng để mọi người có cơ hội nhận biết và yêu mến Người.”[25] Vì lý do đó, sự xuất hiện trên truyền thông, việc sử dụng mạng xã hội và mọi phương tiện hiện đại phải luôn được lượng giá cách khôn ngoan và lấy việc phục vụ công cuộc loan báo Tin Mừng làm tiêu chuẩn phân định. “Mọi sự đều được phép, nhưng không phải mọi sự đều có ích” (1 Cr 6,12).

    26. Trong mọi hoàn cảnh, các linh mục được mời gọi đáp trả hữu hiện niềm khao khát lớn lao về những mối tương quan đích thực và chân thành được tìm thấy trong xã hội đương thời qua chứng tá của một đời sống khiêm tốn và khiết tịnh. Họ cũng phải làm chứng cho một Giáo hội là “men hữu hiệu trong các mối liên kết, các mối tương quan và tình huynh đệ của gia đình nhân loại,” một Giáo hội là “năng lực mạnh hơn nuôi dưỡng các mối tương quan: với Chúa, giữa người nam và người nữ, trong gia đình, trong cộng đoàn địa phương, giữa các nhóm xã hội và các tôn giáo.”[26] Để đạt được điều này, các linh mục và giáo dân phải cùng nhau thực hiện một cuộc hoán cải sứ vụ đích thực mà nó hướng dẫn các cộng đoàn Kitô hữu – dưới sự dẫn dắt của các giám mục – phục vụ “sứ vụ mà các tín hữu thi hành trong xã hội, trong đời sống gia đình và nghề nghiệp.” Như Thượng Hội đồng đã nhận định, “ngày cảng trở nên rõ ràng hơn việc giáo xứ không tự quy về chính mình nhưng hướng về sứ vụ. Giáo xứ được mời gọi nâng đỡ sự dấn thân của nhiều người bằng nhiều cách đang sống và làm chứng cho đức tin trong nghề nghiệp, trong các hoạt động xã hội, văn hóa và chính trị.”[27]

    Trung tín và tương lai

    27. Tôi hy vọng rằng việc cử hành kỷ niệm hai Sắc lệnh Công đồng này, và hành trình chúng ta được mời gọi cùng nhau thực hiện để triển khai và hiện thực hóa chúng, sẽ mang lại một lễ Hiện Xuống ơn gọi mới trong Giáo hội, và khơi dậy nhiều ơn gọi thánh thiện và bền đỗ cho chức linh mục thừa tác. Nhờ đó, sẽ không bao giờ thiếu thợ gặt trong cánh đồng của Chúa. Và mong sao ước muốn dấn thân trọn vẹn cho việc cổ võ ơn gọi và việc cầu nguyện liên lỉ với Chúa Đấng là Chủ mùa gặt (x. Mt 9,37–38) được đánh thức lại nơi tất cả chúng ta.

    28. Tuy nhiên, cùng với cầu nguyện, tình trạng thiếu ơn gọi linh mục – đặc biệt tại một số vùng trên thế giới – mời gọi mọi người xem xét lại tính hiệu quả của hoạt động mục vụ của Giáo hội. Đúng là những nguyên nhân của cuộc khủng hoảng này có thể thường đa dạng và phức tạp, và phụ thuộc nhiều vào bối cảnh văn hóa – xã hội cụ thể. Đồng thời, chúng ta phải có can đảm đưa ra những đề xuất mạnh mẽ và mang tính tự do cho người trẻ, và bảo đảm rằng trong các Giáo hội địa phương có “những môi trường và hình thức mục vụ giới trẻ được tập trung vào Tin Mừng, vì chính tại đó, lời mời gọi hiến dâng trọn vẹn bản thân có thể nảy sinh và trưởng thành.”[28] Trong niềm xác tín rằng Chúa không bao giờ ngừng kêu gọi (x. Ga 11,28), cần phải luôn giữ một triển vọng ơn gọi trong các môi trường mục vụ, đặc biệt trong những môi trường liên quan đến người trẻ và các gia đình. Chúng ta hãy nhớ: không có tương lai nếu không nuôi dưỡng tất cả các ơn gọi!

    29. Sau cùng, tôi tạ ơn Chúa, Đấng luôn ở gần Dân Người và đồng hành với chúng ta, đổ đầy lòng chúng ta niềm hy vọng và bình an cần được mang đến cho mọi người. “Anh chị em thân mến, tôi mong rằng ước muốn lớn lao đầu tiên của chúng ta là một Giáo hội hiệp nhất, một dấu chỉ về sự hiệp thông và hiệp nhất sẽ trở thành men cho một thế giới được hòa giải.”[29] Thêm nữa, tôi cảm ơn tất cả anh chị em, các linh mục và giáo dân, những người mở rộng tâm trí và con tim của mình cho sứ điệp tiên tri của các Sắc lệnh Công đồng Presbyterorum Ordinis và Optatam Totius, và sẵn sàng cùng nhau kín múc nguồn dưỡng chất và cảm hứng từ các sắc lênh này cho hành trình của Giáo hội. Tôi phó thác tất cả các chủng sinh, phó tế và linh mục cho sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm, Mẹ Chỉ Bảo Đàng Lành, và của Thánh Gioan Maria Vianney, bổn mạng các linh mục chánh xứ và là gương mẫu cho mọi linh mục. Như cha sở họ Ars đã nói: “Chức linh mục là tình yêu của Trái Tim Chúa Giêsu,”[30] một tình yêu mạnh mẽ đến mức xua tan những đám mây của sự tự mãn, nản chí và cô đơn. Đó là một tình yêu trọn vẹn, được ban cho chúng ta cách sung mãn trong Thánh Thể: một tình yêu Thánh Thể, một tình yêu linh mục.

    Ban hành tại Rôma, đền thờ Thánh Phêrô, ngày 8 tháng 12, Lễ trọng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, trong Năm Thánh 2025, năm thứ nhất triều đại Giáo hoàng của tôi.

    LEO PP. XIV

    Chuyển ngữ: Ủy ban Giáo sĩ và Chủng sinh

    Nguồn tin: https://hdgmvietnam.com/

     


    [1] Công đồng Chung Vaticanô II, Sắc lệnh về việc đào tạo linh mục Optatam Totius, Lời mở đầu.

    [2] x. Thánh J.H. Newman, Luận văn về sự phát triển của tín lý Kitô giáo, Notre Dame 2024. Theo nghĩa này, tôi nhắc lại lời kêu gọi của Optatam Totius, số 16, về việc canh tân và thăng tiến các ngành học giáo hội, vốn vẫn đang tiếp diễn.

    [3] x. Thượng Hội đồng Giám mục, Vì một Giáo Hội hiệp hành: Hiệp thông, Tham gia và Sứ vụ, Văn kiện Chuẩn bị (2021), số 1; Phanxicô, Diễn văn nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Thượng Hội đồng Giám mục (17 tháng 10 năm 2015).

    [4] Bênêđictô XVI, Thông điệp Deus Caritas Est (25 tháng 12 năm 2005), số 1.

    [5] Bênêđictô XVI, Bài giảng trong Thánh lễ bế mạc Năm Linh mục (11 tháng 6 năm 2010).

    [6] “Người hỏi Phêrô liệu ông có yêu mến Người không, không phải vì cần biết tình yêu của người môn đệ, nhưng vì ước muốn bày tỏ chiều sâu vô hạn của chính tình yêu của Người” (Thánh Gioan Kim Khẩu, De Sacerdotio II, 1: SCh 272, Paris 1980, tr. 104, dòng 48–51).

    [7] Bộ Giáo sĩ, Hồng ân ơn gọi linh mục. Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis (8 tháng 12 năm 2016), số 57.

    [8] Diễn văn gửi đến các tham dự viên Hội nghị Quốc tế Linh mục do Thánh bộ Giáo sĩ tổ chức nhân dịp Năm Thánh của Linh mục và Chủng sinh (26 tháng 6 năm 2025).

    [9] Suy niệm nhân dịp Năm Thánh của Chủng sinh (24 tháng 6 năm 2025).

    [10] Bênêđictô XVI, Bài giáo lý (24 tháng 6 năm 2009)

    [11] Công đồng Chung Vaticanô II, Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục Presbyterorum Ordinis, số 9.

    [12] Ibid., 8.

    [13] Thánh Cyprianô, De Oratione Domini, 23: CCSL 3A, Turnhout 1976, tr. 105.

    [14] x. Bộ Giáo sĩ, Hồng ân ơn gọi linh mục. Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis (8 tháng 12 năm 2016), các số 87–88.

    [15] Diễn văn gửi đến các tham dự viên Hội nghị Quốc tế Linh mục do Thánh bộ Giáo sĩ tổ chức nhân dịp Năm Thánh của Linh mục và Chủng sinh (26 tháng 6 năm 2025).

    [16] x. Thánh Gioan Phaolô II, Tông huấn Pastores Dabo Vobis (25 tháng 3 năm 1992), số 61; Bênêđictô XVI, Tự sắc Ministrorum Institutio (16 tháng 1 năm 2013).

    [17] x. Công đồng Chung Vaticanô II, Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục Presbyterorum Ordinis (7 tháng 12 năm 1965), số 8.

    [18] Thánh Inhaxiô Antiôkia, Thư gửi tín hữu Êphêsô, 4, 1–2: SCh 10, Paris 1969, tr. 72.

    [19] Diễn văn gửi đến các tham dự viên Năm Thánh của các Nhóm Hiệp hành và các Cơ cấu Tham gia (24 tháng 10 năm 2025).

    [20] Thượng Hội đồng Giám mục, Vì một Giáo Hội hiệp hành: Hiệp thông, Tham gia, Sứ vụ, Văn kiện Chung kết của Khoá họp thứ hai Đại Hội Thường kỳ lần thứ XVI (26 tháng 10 năm 2024), tại http://hdgmvietnam.com/chi-tiet/van-kien-chung-ket-cua-dai-hoi-thuong-le-lan-thu-xvi-cua-thuong-hoi-dong-giam-muc

    [21] Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11 năm 2013), số 104, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tong-huan-niem-vui-cua-tin-mung-evangelii-gaudium-46656

    [22] Phanxicô, Bài giảng trong Thánh lễ Truyền Dầu (17 tháng 4 năm 2014).

    [23] Thánh Gioan Phaolô II, Tông huấn Pastores Dabo Vobis (25 tháng 3 năm 1992), số 15.

    [24] x. sđd., số 23.

    [25] Bài giảng trong Thánh lễ pro Ecclesia (9 tháng 5 năm 2025).

    [26] Thượng Hội đồng Giám mục, Vì một Giáo Hội hiệp hành: Hiệp thông, Tham gia, Sứ vụ, Văn kiện Chung kết của Khoá họp thứ hai Đại Hội Thường kỳ lần thứ XVI (26 tháng 10 năm 2024), các số 20; 50, tại http://hdgmvietnam.com/chi-tiet/van-kien-chung-ket-cua-dai-hoi-thuong-le-lan-thu-xvi-cua-thuong-hoi-dong-giam-muc

    [27] Sđd., các số 59; 117.

    [28] Diễn văn gửi đến các tham dự viên Hội nghị Quốc tế Linh mục do Thánh bộ Giáo sĩ tổ chức nhân dịp Năm Thánh của Linh mục và Chủng sinh (26 tháng 6 năm 2025).

    [29] Bài giảng trong Thánh lễ Khai mạc Sứ vụ Phêrô (18 tháng 5 năm 2025), tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/bai-giang-thanh-le-khai-mac-su-vu-phero-cua-duc-tan-giao-hoang-leo-xiv-1852025---tinh-yeu-va-hiep-nhat

    [30] “Chức linh mục chính là tình yêu của Trái Tim Đức Giêsu”, trong Bernard Nodet, Le curé d’Ars. Sa pensée, son cœur, Paris 1995, tr. 98.

    Bài viết liên quan