Ngày 15/8 - Đức Mẹ hồn xác về trời

  • 15/01/2023 21:08
  • Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng kính một trong bốn hồng ân trọng đại mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Maria Mẹ của chúng ta: Màu Nhiệm Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời.

    Ngày 15/08: Đức Mẹ hồn xác về trời

     

    Ngày 15 tháng 8

    ĐỨC MẸ HỒN XÁC VỀ TRỜI

    I.  LỊCH SỬ NGÀY LỄ

    1. Ghi nhận lịch sử – phụng vụ

    Việc kính trọng thể Đức Maria Théotokos (Mẹ Thiên Chúa) cử hành ngày 15 tháng 8, đã được chỉ định rõ rệt trong một sách bài đọc miền Géorgien thế kỷ thứ VIII, cho thấy cùng ngày hôm đó ở Jérusalem cũng có một lễ kính Đức Mẹ tại một nhà thờ do nữ hoàng Eudoxie cho xây tại Gethsémani. Lễ Đức Mẹ An giấc (Dormitio) mà hoàng đế Maurice (+ 602) cho thực hành trong thế kỷ thứ VI khắp Đế quốc Roma, đã được cử hành ở Roma trong thế kỷ thứ VII dưới tước hiệu Đức Mẹ An nghỉ (Pausatio), cùng với một số lễ Đức Mẹ khác như Lễ Dâng con vào Đền thánh, Lễ Truyền tin, Lễ sinh nhật Đức Mẹ, còn lễ Mẹ Thiên Chúa thì cử hành ngày 1 tháng giêng. Chỉ từ thế kỷ thứ XIII, mới có tên là lễ Đức Mẹ lên trời trong sách phụng vụ Bí tích Grégorien. Sách ghi: “Người đã chịu cảnh chết tạm thời nhưng không bị khuất phục bởi xiềng xích sự chết”. Thánh lễ đã thực sự trọng thể nhờ một cuộc kiệu đêm từ nhà thờ Saint-Adrien-au-Forum đến Đền Đức Bà Cả, một đêm canh thức, một ngày chay, đến thế kỷ thứ VIII có thêm tuần bát nhật.

    Một số câu chuyện ngụy thư trong thế kỷ V và VI về bước Chuyển dịch (Transitus) của Đức Maria tìm cách giải thích cái chết của Đức Mẹ trong đó đã nói tới tư tưởng việc thân xác Người được triệu về trời. Truyền thống liên tục trong Giáo hội -mà thánh Grégoire thành Tours (+594) là người làm chứng đầu tiên, tiếp theo là các giáo phụ khác như Pseudo-Modeste ở Jérusalem (+khoảng 700)- minh nhiên khẳng định có việc đưa lên trời của Đức Mẹ. Trong khi một tác giả tên là Timothée linh mục ở Jérusalem (thế kỷ VI-VII) cho rằng “cho đến bây giờ Đức trinh nữ vẫn là bất tử (nghĩa là không chết)”, ý kiến của hầu hết các Giáo phụ, cũng như phụng vụ và truyền giáo điều công nhận cái chết của Người.

    Việc khắp nơi tin tưởng Đức Maria được gọi về trời càng được khẳng định do việc hàng giám mục công giáo trả lời Đức Piô VII năm 1946. Quả thế, Đức giáo hoàng, sau khi gữi một bức thư hỏi ý kiến tất cả các Giám Mục trên thế giới xem có thể công bố thành tín điều việc thân xác Đức Maria được đưa về trời, và nhận được câu trả lời khẳng định của hầu như tất cả các vị, ngày 1 tháng 11 năm 1950, qua Hiến chế Munificentissimus Deus Đức Giáo hoàng đã công bố chân lý đức tin sau đây: “Đức Maria vô nhiễm trọn đời đồng trinh, Mẹ Thiên Chúa, sau cuộc sống trần gian, đã được cất nhấc cả hồn và xác về vinh quang trên trời”.

    2. Thông điệp và tính thời sự

    Lời nguyện lễ vọng, lấy từ Sách các phép Giáo hoàng thế kỷ VIII (của Đức Grégoire) nhấn mạnh dây liên đới giữa việc Đức Mẹ được triệu về trời với tính cách Mẹ Thiên Chúa của Người:

    “Chúa đã ban cho Người ân phúc và vinh dự được làm mẹ con Một Chúa và đã ban triều thiêng vinh hiển không ai sánh bằng Người trong ngày hôm nay …”. Trong ngày đại lễ, chúng ta thấy ba tư tưởng chính xoay quanh hai chiều kích vừa cá nhân vừa giáo hội của biến cố này.

    Lời nguyện trong ngày đặt tương quan giữa việc Đức Maria được triệu về trời với ơn vô nhiễm nguyên tội và ơn làm mẹ Thiên Chúa. Một trong các nền tảng của tín điều là lời tiên báo cuộc chiến thắng của Người phụ nữ trên con rắn (St 3,15), và ba điều chúc dữ, trong đó có cái chết (xem 1Co 15,55). Hơn thế nữa: trong phúc âm Luca, Đấng Đầy ân phúc (1,28) được bà Elisabeth chào là Người được phúc lành duy nhất (1,42) chứng tỏ Đức Maria đã không bị ảnh hưởng của lời chúc dữ bởi sách Sáng Thế 3,19, nhưng gắn liền với phúc lành Con của Người. Kinh tiền tụng, lấy tinh thần từ Hiến chế Lumen Gentium của Công đồng Vatican II (số 68) gọi Đức Maria là “hình ảnh trọn vẹn của Giáo hội mai sau” và tung hô “(Lạy Chúa), Chúa đã giữ gìn khỏi hư nát thân xác của Đấng từng cưu mang Con Một Chúa và sinh ra Đấng tạo nên cuộc sống …” Trong ngày này khi mừng việc Đức Maria được triệu về trời, chúng ta cũng mừng mầu nhiệm phục sinh của Đức Kitô. Sợi dây liên kết bất khả phân ly nối kết Mẹ với Con mang lại một ý nghĩa đặc biệt cho biến cố này, như các bài đọc sách thánh trong thánh lễ (1 Co 15,20-26) và trong phụng vụ giờ kinh (Ep 1,16-2,10) hôm nay nhấn mạnh. Đấng được cứu chuộc trước (Pré-rachetée) cũng là Đấng được phục sinh trước (Pré-ressuscitée): “Đức Kitô lên trời đã chuẩn bị cho mẹ mình một chỗ ở vĩnh hằng- Alleluia” (điệp ca thứ nhất kinh chiều ngày vọng). Tôn vinh Đức Maria chính là tôn vinh cuộc hành trình đức tin và ân sủng đã đưa Người đến chân thập tự giá (Ga 19,25). Bài đọc thứ nhất trong thánh lễ (Kh 11-12) có vẻ muốn đặt một sự song hành giữa Người phụ nữ, Con gái Sion và Giáo hội của thời Tân Ước. Vậy nên Đức Maria được đưa lên trời, trở thành hình ảnh thời thế mạt của Giáo hội và nhờ lời khẩn cầu của mình, Người giúp nhân loại “đạt tới vinh quang phục sinh” (lời nguyện tạ lễ)

    Enzo Lodi

    Nguồn tin:  https://www.tonggiaophanhanoi.org/

     

    II.  ĐỨC MẸ HỒN XÁC VỀ TRỜI

    Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng kính một trong bốn hồng ân trọng đại mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Maria Mẹ của chúng ta: Màu Nhiệm Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời.

    Mừng lễ hôm nay tự nhiên tôi nhớ đến câu chuyện đã xảy ra trong cuộc đời của tôi cách đây hơn gần 40 năm. Cũng vào dịp như thế này vào chiều 15-8-1981 ,sau khi tôi vừa dâng lễ xong thì có một người đàn ông trạc độ 50-60 tuổi. Ông tìm đến với tôi và nói với tôi những lời rất chân thành như sau trước mặt mọi người: “Thưa Cha, hôm nay con nghe bài giảng của cha con cảm động quá. Cha còn mặc áo màu vàng...màu vui, màu chiến thắng....Nhưng cha có biết không....hôm nay là ngày giỗ của mẹ con....Mẹ con mất...ở đời con chỉ có mẹ...Con nhớ mẹ con quá....Xin cha cho con địa chỉ của Vatican....Con gửi thư con nói với Chúa....con đòi mẹ con lại. Ở đời con chỉ có mẹ. Đời con chỉ có mẹ. Mẹ là lẽ sống, mẹ là niềm vui của con. Con muốn đòi mẹ con lại.

    Vâng kính thưa anh chị em. Mẹ là lẽ sống, là niềm vui. Có Mẹ thật không có gì hạnh phúc hơn.

    Không thể có niềm vui nếu không có mẹ. Có lẽ chính vì thế mà Thiên Chúa là Cha đầy lòng thương xót đã ban cho chúng ta một người mẹ tuyệt vời: Mẹ Maria, Mẹ của mỗi người chúng ta.

    Hôm nay chúng ta mừng mẹ được về trời. Mẹ về trời có nghĩa là mẹ đang sống. Sự sống của Mẹ không phải chỉ giới hạn trong cuộc đời, nhưng bao trùm cả lịch sử: Lịch sử của cả loài người lẫn lịch sử của mỗi người chúng ta.

    Vâng ngay từ thuở đời đời Thiên Chúa đã muốn cho người mẹ đó luôn ở với chúng ta.

    1. Ngay từ những ngày tháng đầu tiên khi mới có con người trên trái đất này, Mẹ đã có mặt ở đó:

    Ta sẽ  đặt giữa ngươi và người phụ nữ

    Giữa dòng dõi ngươi và dòng dõi người nữ  một mối cừu địch

    Người phụ nữ đó sẽ đạp dập đầu mi”

    Vâng ngay từ những ngày đầu tiên của lịch sử loài người Mẹ đã có mặt tại đó như một bảo đảm cho nguồn ơn cứu rỗi, như một lời hứa chắc chắn sẽ được thi hành, như một hy vọng chắc chắn sẽ thành sự thật cho cả loài người mai sau.

    2. Rồi khi đến thời đến buổi, lúc Thiên Chúa muốn thực hiện lời hứa của Người. Mẹ Maria đã có mặt ở đó. Bằng Lời Xin vâng với tất cả tâm tình phó thác, Mẹ để cho Thiên Chúa hoàn toàn làm chủ cuộc đời của mình để làm những việc Thiên Chúa muốn trong chương trình cứu rỗi loài người chúng ta.

    Sau hai tiếng Xin Vâng cuộc đời của Đức Mẹ không còn gì là của mình nữa. Tất cả đã hoàn toàn thuộc về Chúa.

    + Ngày Chúa Giêsu Đấng Cứu thế ra đời, khởi đầu công việc cứu thế, Mẹ có mặt ở đó để chứng kiến giây phút trọng đại này.

    Mt 2,11

    Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.

    Lc 2,6

    Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa.

    Lc 2,16

    Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ.

    + Lúc Chúa khởi sự cuộc đời công khai, tại tiệc cưới Cana, Mẹ có mặt ở đó như một người mẹ luôn lo lắng cho con cái của mình

    Ga 2,1

    Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giê-su.

    Lúc Chúa rao giảng: Mẹ có mặt xa xa nhưng khi Chúa bị treo trên Thánh Giá: Mẹ đứng thật gần. Thánh Gioan “Mẹ đứng sát cạnh Chúa Giêsu...như một trợ lực cho người con để Ngài làm xong những công việc cần phải làm cho mọi sự được hoàn tất.

    Ga 19,25

    Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la.

    + Rồi ngày đầu tiên đánh dấu sự ra đời của Giáo hội Mẹ có mặt ở đó với tất cả lòng yêu thương để khích lệ các tông đồ can đảm dấn thân vào cuộc sống mới: Cuộc sống làm chứng cho Chúa Giêsu Phục sinh.

    Cv 1,14

    Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su.

    + Chưa hết: Sau khi Chúa về trời

    Mẹ tiếp tục có mặt, có mặt như một nhắc nhở để những người con của mẹ nơi trần thế này chớ có vì cuộc sống tạm bợ mà quên mất trời cao.

    Đọc lại lịch sử Giáo Hội tôi thấy vào những thế kỷ gần đây Mẹ đã hiện ra với con cái của Mẹ rất nhiều lần.

    + Mẹ đã hiện ra với nữ tu Catharina Labouré tại khu phố Dubac ở Thủ đô nước Pháp năm 1830

    + Năm 1846 tại La  Salette Mẹ hiện ra với hai trẻ mục đồng: Mélaine (10 tuổi) và Maximin (15 tuổi)

    + Tại Lộ Đức năm 1858 với cô bé chăn cừu Bernadette

    + Tại Pontmain 1871 với Cha Barbedette và cậu Eugène

    + Tại Pellevoisin 1876 với Estelle Faguette (12 tuổi)

    + Tại Fatima 1917 với ba trẻ: Giaxinta (7 tuổi)- Phanxicô (9 tuổi) - Và Lucia 10 tuổi)

    + Tại Beauring Bỉ với Albert (11 tuổi) - Fernande Versin (15 tuổi) Gilberte Degeimbre (9 tuổi) và André Degeimbre (14 tuổi)

    + Và sau đó tại Banneux cũng ở tại nước Bỉ với Mariette (12 tuổi)

    + Tại Hang Ba suối ở Roma với 1 người đàn ông và ba em nhỏ: Ông Bruno Cornachiola và ba em là: Isala (10 tuổi) - Carlô (7 tuổi) và Gioanfraco (4 tuổi)

    Và gần đây ngày 24/6/1981 tại Medjugorji thuộc trung tâm nước Nam tư cũ với hai thiếu nữ Mirjana Dragicevic và Ivanda Ivankovic

    Tôi chưa được tới Medjugorji nhưng những sự việc ở Medjugorji ngày hôm nay vẫn đang là một hiện tượng mà Khoa học không thể nào cắt nghĩa được. Tại Medjugorji hằng ngày vẫn có hằng ngàn, hằng ngàn người đến đó để lãnh nhận những sứ điệp rất đặc biệt Đức Mẹ ban để cùng với Đức Mẹ gìn giữ Hòa Bình cho thế giới.

    Cuối cùng chúng ta cũng không quên Mẹ đã hiện ra nhiều lần cách đây 200 nam tại Lavang....Tại Lavang hằng năm, các tín hữu từ khắp nơi, từ khắp mọi miền đất nước đang tề tựu tại đó chung quanh Mẹ để tạ ơn Thiên Chúa, để cầu xin cho Giáo Hội VN của chúng ta. Chúng ta hãy hiệp lòng hiệp ý với hàng Giáo Phẩm VN trong những ngày trọng đại này.

    Tất cả những lần hiện ra như thế dường như chỉ để chứng minh có một điều: Mẹ vẫn có mặt, có mặt thường xuyên và gần gũi với con cái loài người chúng ta, giúp cho con cái loài người hãy biết sống để chiếm hữu được trời cao như Mẹ.

    Vâng chúng ta hãy biết nghe lời Mẹ và nhất là hãy biết sống như Mẹ đã sống để mai sau khi kết thúc cuộc đời trần thế này, chúng ta được Đức Mẹ dẫn đưa chúng ta về quê trời.

    Tuy còn đang sống ở trần gian những lòng chúng ta đừng quên hướng về trời.

    Thánh Giáo phụ Basilio bị điệu ra tòa án Roma trước mặt Hoàng đế:

    - Người bỏ đạo, ta sẽ ban cho chức cao lộc hậu.

    - Lời dạy bảo của bệ hạ dạy dỗ được trẻ con. Kinh Thánh tôi dạy khác hẳn, nên thà chết hơn lìa bỏ đấng Kitô.

    - Ngươi không biết trẫm là ai sao?

    - Tôi không tuân lệnh Bệ hạ đâu.

    - Ngươi không biết ta có quyền ban chức tước cho ngươi sao?

    - Chức tước bổng lộc có thể thay đổi như chính bệ hạ.

    Thấy không thể lay chuyển lòng Thánh nhân Vua đe tịch thu tài sản, tra tấn tù tội và giết.

    - Tâu bệ hạ, tôi chẳng có gia tài cho bệ hạ tịch biên. Lưu đày chăng? Tôi có quê thiên đàng. Tra tấn ư? Tôi sẵn sàng chịu vì Chúa. Giết tôi ư? Càng sớm về trời.

    - Ngươi thật điên cuồng!

    - Tôi mong được điên mãi như thế này.

    Trên con đường chúng ta đi chúng ta chẳng có gì phải sợ hãi. Mẹ sẽ luôn đồng hành với chúng ta. Mẹ sẽ có mặt kịp thời để che chở, phù giúp chúng ta miễn là chúng ta biết tin tưởng ở Mẹ.

    Một hôm trong đám những người hành hương đến Arc có một người đàn bà mang đại tang. Bà vào giữa nhà thờ đứng như trời trồng ở giữa mọi người. Bà có vẻ rất đau khổ. Lý do là chồng bà, một người đã bỏ đạo từ lâu cách đây mấy bữa đã nhảy xuống sông tự tử…đã chết mà không được lãnh nhận những bí tích cuối cùng. Cha Gioan Maria Vianney đi qua….Bà chưa kịp nói gì thì Cha ghé vào tai bảo bà:

    - Ông nhà đã được cứu rỗi rồi.

    Thấy người đàn bà có vẻ quá ngạc nhiên, cha nói lại một lần nữa:

    - Tôi đã bảo ông nhà đã được cứu rỗi rồi mà.

    Bà thắc mắc hỏi lại với một giọng đầy hoài nghi, cha nhấn mạnh từng tiếng:

    - Tôi bảo bà là ông nhà đã được cứu rỗi rồi. Ông hiện đang ở trong Luyện ngục. Phải cầu nguyện nhiều cho ông ta. Giữa nhịp cầu và dòng nước, ông đã có được một thời gian để ăn năn thống hối. Bà còn nhớ là trong tháng Đức Mẹ, bà đã cho làm một bàn thờ trong phòng của bà không? Thỉnh thoảng, chồng của bà, mặc dầu đã bỏ đạo cũng đến hợp lời cầu nguyện với bà. Thái độ đó đã đem lại cho ông tạ ơn thống hối và tha tội vào phút cuối cùng của cuộc đời.

    Lạy Mẹ Maria

    Đã một lần Mẹ nhận nhân loại chúng con làm con của mẹ

    Và từ dạo ấy

    Mẹ đã yêu nhân loại với tất cả tấm lòng từ mẫu

    Chúng con là những người trong khối nhân loại ấy

    Và như thế chúng con đã đương nhiên là con của Mẹ

    Và đương nhiên là Mẹ thương chúng con

    Xin dạy chúng con

    biết chiêm ngắm Chúa Kitô

    và suy đi nghĩ lại những Lời của Người

    trong tâm tình yêu mến như Mẹ

    Xin dẫn lối cho chúng con

    trên bước đường theo Chúa

    cũng như đem Chúa đến cho mọi người

    Xin dạy chúng con biết luôn bước đi trên con đường tình yêu

    Với tâm tình phó thác

    Xin dẫn chúng con

    đến sự sống muôn đời

    bằng cách đặt bàn tay chúng con

    vào bàn tay của Chúa Kitô

    Đấng đã có lần nói với mọi người

    Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Amen

    Lm. Giuse Đinh Tất Quý

    Nguồn tin:  https://tgpsaigon.net/

     

    III.  MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI

    WHĐ (13.8.2021) - Ngày lễ Các Thánh Nam Nữ 01-11-1950, qua Tông hiến “Munificentissimus Deus” (Thiên Chúa vô cùng quảng đại), Tôi tớ Chúa, Giáo hoàng Pi-ô XII đã long trọng công bố Tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời như sau: “Để tôn vinh Thiên Chúa toàn năng là Đấng đã ban muôn vàn ơn lành đặc biệt của Người trên Trinh Nữ Ma-ri-a, để tôn kính Con của Người là Vua muôn đời, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, để Bà Mẹ cao cả của Người Con đó được hiển vinh hơn, và để toàn thể Giáo Hội hân hoan phấn khởi; bằng quyền bính của Chúa Giê-su Ki-tô, của hai Thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô, và bằng thẩm quyền của mình, Tôi công bố, tuyên xưng và xác nhận như là một tín điều được Thiên Chúa mạc khải: Người Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội của Thiên Chúa, Đức Ma-ri-a Đồng Trinh, sau khi hoàn tất cuộc đời trần thế của mình, đã được mang lên hưởng vinh quang trên trời cả thân xác lẫn linh hồn”. Tín điều mới mẻ ấy như một đóa hoa nở bung từ một niềm tin đã có ngay từ thời Giáo hội sơ khai, được diễn bày theo dòng thời gian 20 thế kỷ trong Phụng vụ, trong giáo huấn của các Giáo phụ và các nhà thần học.

    Đức Thánh Cha Pi-ô XII cũng qui định tín điều thành lễ trọng đặc biệt trong khắp Giáo hội với luật buộc tham dự Thánh lễ. Ngày 15 tháng 8 được chọn theo một truyền thống cổ bắt nguồn từ Giêrusalem trước thời hoàng đế Cons-tan-ti-nô I (thế kỷ thứ 4).

    Nhờ đâu Mẹ Ma-ri-a được lên trời lập tức và lên trời cả hồn lẫn xác ngay sau khi hoàn tất cuộc đời trần thế?

    1- Lên trời lập tức, kết quả của các đặc ân từ Thiên Chúa.

    a- Đặc ân làm Mẹ Thiên Chúa

    Sau khi nguyên tổ loài người phạm tội (chuyện mà Thiên Chúa biết trước lúc tạo dựng họ có tự do, một điều kiện để làm nghĩa tử của Người nhưng cũng là con dao hai lưỡi), Thiên Chúa thực hiện bước hai của chương trình mình là sai Đích Tử nhập thế và nhập thể nhằm ở với nhân loại, cứu họ khỏi hố sâu tội lỗi, đền bù những lỗi lầm họ gây ra, liên kết họ với Người trong Con của Người. Để thành tựu việc này, hẳn nhiên Thiên Chúa phải chọn cho Đích Tử của mình một bà mẹ phàm nhân, như Cựu Ước đã tiên báo: “Này đây một người nữ sẽ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Is 7,14), ban cho bà tước hiệu Mẹ Con Thiên Chúa, rồi còn thêm tước hiệu Mẹ Thiên Chúa, vì Người Con ấy đồng bản tính và đồng bản thể với Chúa Cha (như tuyên tín của Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431. X. Bộ Nguồn liệu Tín lý Công giáo Denzinger-Schonmetzer, số 252). Người Con ấy cũng là Đấng Cứu Chuộc nên thân mẫu của Người sẽ được gọi là Mẹ Đấng Cứu Chuộc (nhưng không “đồng công cứu chuộc” như sẽ thấy bên dưới). Như thế, tước hiệu Mẹ Con Thiên Chúa và Mẹ Thiên Chúa là nền tảng và suối nguồn của những gì cao quý và tốt đẹp mà Thiên Chúa sẽ thực hiện nơi Đức Ma-ri-a (như lời sứ thần Gáp-ri-en nói trong ngày Truyền tin: “Hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” Lc 1,28) khi Mẹ bắt đầu hiện hữu trong không gian thời gian và đi vào phục vụ chương trình cứu chuộc.

    b- Đặc ân Vô nhiễm Nguyên tội

    Bắt đầu hiện hữu trong không gian thời gian (nghĩa là từ khi tượng thai trong lòng mẹ), mọi con cháu Adam-Eva đều lâm vào tình trạng xa cách Thiên Chúa, mất ơn nghĩa với Người, một hậu quả do tội nguyên tổ mà nhờ phép Rửa mới khắc phục được. Nhưng sự thương tổn bản tính do nguyên tội thì vẫn còn (ba bản năng quyền lực, sinh tồn và truyền sinh dễ chệch đường, đi thái quá). Chỉ duy một con người trong nhân loại thoát khỏi tình trạng thê thảm đó: Đức Ma-ri-a. Trong sắc lệnh “Ineffabilis Deus” (Thiên Chúa khôn tả, ban hành ngày 8-12-1854), Chân phước Giáo hoàng Pi-ô IX đã long trọng công bố: “Để vinh danh Ba Ngôi thánh thiện duy nhất, để tôn kính và hiển danh Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, để phấn khởi đức tin Công giáo và phát triển đạo Ki-tô; bằng quyền bính của Chúa Giê-su Ki-tô, của hai Thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô, và bằng thẩm quyền của mình, Tôi tuyên xưng, công bố và xác nhận: tín lý cho rằng rất Thánh Nữ Trinh Ma-ri-a, ngay từ giây phút tượng thai của mình, nhờ ơn sủng cùng với đặc ân chuyên nhất của Thiên Chúa toàn năng, và dựa vào công nghiệp của Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu Chuộc loài người, đã được gìn giữ vô nhiễm khỏi mọi tì vết của nguyên tội, là điều được Thiên Chúa mạc khải, vì thế, tất cả mọi tín hữu đều phải mạnh mẽ và liên lỉ tin tưởng”. (x. Denzinger-Schonmetzer, số 280). Tuyên bố này cũng là kết quả của một trào lưu thần học, tu đức và phụng vụ lâu đời. Đặc biệt là dòng Phanxicô với các thần học gia như chân phước Jean Duns Scot (1266-1308). Quan niệm “praeredemptio” (tiền cứu chuộc) do họ đưa ra được coi là nền tảng thần học cho việc Đức Ma-ri-a vô nhiễm nguyên tội ngay lúc tượng thai. Theo quan niệm này, Mẹ được hưởng công lao cứu chuộc của Chúa Kitô trước khi Chúa xuống thế làm người bằng một ơn không phải giải thoát Mẹ khỏi tình trạng tội lỗi nhưng là dự phòng để Mẹ khỏi sa vào tình trạng ấy. Theo Duns Scot, đây là cách cứu chuộc hoàn hảo nhất. Chính thánh Augustinô trước đó cũng dùng một hình ảnh đầy ấn tượng: Chúa Kitô cứu chuộc chúng ta bằng cách dùng Thánh giá kéo chúng ta lên khỏi hố sâu tội lỗi, và cứu chuộc Mẹ Ma-ri-a bằng cách dùng Thánh giá giữ Mẹ khỏi sa xuống hố này.

    Sau khi tín điều này tuyên bố được 4 năm, thì ngày 25-03-1858, Đức Mẹ đã tự xác nhận mình là Đấng “Vô nhiễm Nguyên tội ngay từ lúc tượng thai” khi hiện ra với thánh nữ Bê-na-đê-ta ở Lộ Đức.

    c- Đặc ân Đồng trinh trọn đời

    Năm 649, Công đồng La-tê-ra-nô đã tuyên tín: “Khốn cho ai không theo các Nghị phụ thánh đức tuyên xưng một cách chân thực và xác đáng rằng Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa mãi mãi trinh nguyên và vô nhiễm, xưa kia đã đặc biệt và thực sự thụ thai - nhờ Thánh Thần và không cần hạt giống (loài người) - chính Thiên Chúa Ngôi Lời, Đấng được Thiên Chúa Ngôi Cha hạ sinh trước mọi thời gian” (Denzinger-Schonmetzer, số 503).

    Tình trạng đồng trinh của Mẹ không chỉ được hiểu trên phương diện vật lý, thể xác, mà còn phải được hiểu trên phương diện tâm lý, tinh thần, ở một mức độ cao nhất, có như thế Mẹ mới được gọi là “Rất thánh Nữ Đồng trinh trên hết các kẻ đồng trinh” và “Nữ Vương các thánh đồng trinh” (Kinh cầu Đức Bà). Sự đồng trinh ở đây cũng bao hàm sự trung trinh, nghĩa là chẳng những Mẹ không bao giờ có những hành vi vợ chồng với Thánh Giuse, luôn giữ mình trong sạch từ tư tưởng, lời nói đến việc làm, mà còn trung thành mãi mãi trong tình yêu đối với Thiên Chúa, chẳng vương chút tội lỗi chống lại Người.

    Đức Ma-ri-a, dù được vinh dự làm Mẹ Con Thiên Chúa, vẫn trải qua cả cuộc sống đầy khổ đau, như lời tiên báo của cụ già Xi-mê-on tại sân Đền Thờ (Lc 2,35). Trước đó, mối tình với Thánh Giuse suýt tan vỡ khi Thánh nhân định bỏ đi vì nghĩ rằng mình không còn có quyền động tới vị hôn thê nay trở thành vật thánh của Thiên Chúa vì đã cưu mang Đích Tử của Người. Mẹ cũng đã sinh con trong quằn quại xâu xé như bao bà mẹ trần gian, do tất cả hệ lụy của kiếp người và của việc nhập thể mà Con Thiên Chúa hoàn toàn tôn trọng. Nhưng đang khi hầu hết mọi thai phụ kêu trời, réo đất, chửi chồng trong cơn đau số một này, thì Mẹ đã hoàn toàn chấp nhận và hiến dâng nỗi khổ cho Thiên Chúa. Thiết tưởng nên hiểu như thế khi thần học nói: Mẹ đồng trinh không những trước và sau khi sinh con, mà cả trong khi sinh con. Giáo lý Hội thánh Công giáo số 499 dạy: “Hội Thánh tuyên xưng Đức Ma-ri-a thật sự và trọn đời đồng trinh, cả trong khi sinh hạ Con Thiên Chúa làm người. Thật vậy, việc sinh hạ Đức Kitô “không làm suy giảm, nhưng thánh hiến sự trinh khiết vẹn toàn” của Mẹ”.

    Rồi cảnh đoạn trường khi sinh Chúa trong chuồng lừa máng cỏ, bồng Chúa chạy trốn sang Ai Cập, lạc mất Chúa 3 ngày trong Đền thờ… Kèm theo đó là việc chiến đấu để giữ mình trong sạch bên cạnh một người chồng trẻ trung, đáng yêu, đức hạnh (lối vẽ Thánh Giuse như một ông ngoại đang bồng cháu cho con gái không có nền tảng lịch sử, đồng thời hạ giá nhân đức khiết tịnh của cặp bạn đời này). Khổ đau tiếp tục chồng chất lên Đức Ma-ri-a khi theo Con trên bước đường rao giảng Tin Mừng, thấy quanh Con kẻ thù rình rập, thất bại bủa vây, âm mưu xúi bẩy, và đỉnh điểm là cái chết tức tưởi, ô nhục của một tử tội bị đóng đinh mà bà mẹ cũng bị nguyền rủa. Nhưng “Mẹ Sầu bi” đã đứng vững dưới chân thập giá với tất cả tâm hồn chấp nhận! Stabat Mater dolorosa!

    Tình yêu trung trinh đối với Thiên Chúa -biểu hiện đức đồng trinh tuyệt hảo của Mẹ- còn tỏ lộ qua việc Mẹ cộng tác mật thiết với Chúa Giêsu trong công trình cứu độ của Người, cộng tác như môn đệ rất mực trung thành, như nữ tỳ hết dạ xin vâng, bắt đầu từ lời gợi ý trong tiệc cưới Cana, sang việc đón nhận Gioan làm con dưới chân thập giá, đến chuyện cùng cầu nguyện với nhóm Tông đồ, môn đệ, thân thuộc để chuẩn bị nhận lãnh ơn Thánh Thần (Cv 1,14) rồi kéo dài cho tới khi giã từ cuộc sống trần gian.  

    Sự mãn phần này của Mẹ, trước thời hoàng đế Cons-tan-ti-nô I (280-337), được tín hữu ghi nhớ qua một cuộc lễ trong nhà thờ trên núi cây dầu tại Giê-ru-sa-lem vào ngày 15 tháng 8 hàng năm. Truyền thống đã gọi lễ này là lễ Đức Mẹ an giấc (Dormition). Cách gọi này không phải không có lý. Vì chúng ta biết: cái chết là hành vi nhân linh cuối cùng của một đời người, bao gồm vừa những tâm tư tình cảm trong hồn vừa những đổi thay biến chuyển nơi xác. Đối với phàm nhân chúng ta, ngoài việc chấm dứt hơi thở, phân rã thể xác, phút lâm chung còn kèm theo sự tiếc nuối của tâm hồn vì bao dứt bỏ đớn đau: những ước vọng thiết tha, những vui thú trần đời; sự tái tê trong cõi lòng vì phải vĩnh viễn từ giã những thân thuộc luyến thương, những công trình dang dở; sự hoảng sợ nơi nội tâm vì các sai lầm đã mắc, các tội lỗi đã phạm, các đền bù chưa xong; sự lo âu trước tương lai vô định, mai hậu mịt mờ… Ngay cả những bậc thánh nhân đã thanh luyện cuộc đời, chuẩn bị rời thế cũng không nhiều thì ít, đều có các tâm tình đó. Tất cả làm nên cái mà người ta gọi là cái chết, hậu quả của tội lỗi. Đang khi đó thì con vật cũng đi tới chỗ tiêu vong thân thể nhưng chẳng hề có những tâm tình như vậy, nên các nhà thần học, chẳng hạn linh mục Karl Rahner, không gọi đó là chết mà chỉ gọi đó là ngã quỵ, lụi tàn (succomber trong tiếng Pháp).[1]

    Nhưng với một người như Đức Mẹ -qua những gì trình bày ở trên- thì không thể nói như thế. Sự mãn phần của Mẹ chỉ có thể gọi là giấc ngủ, song không chỉ dừng lại chỗ này… Ở đây có một thắc mắc: phải chăng Chúa Giêsu cũng đã tuyệt vọng trong giờ chết khi Người thốt lên trên thập giá: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con” (Mt 27,46; Mc 15,34). Hầu hết các nhà chú giải đều cho đó là Chúa chỉ đọc lên câu đầu của Thánh vịnh 22 (21), bản văn tiên báo và mô tả cuộc khổ nạn của Người, để cho thấy là Người đang hoàn tất những gì nói lên trong đó. Trước đấy, trong phòng Tiệc ly, Người đã nói với môn đệ: “Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy” (Ga 16,32). Sáu lời còn lại trên thập giá cũng chỉ tỏa ra một tinh thần yêu thương, an bình và phó thác.

    2- Lên trời hồn xác, kết quả từ cuộc phục sinh của Chúa Kitô.

    Như đã nói, trong những thế kỷ đầu, lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời được gọi là lễ Đức Mẹ an giấc. Lễ này mặc tất cả sự trang trọng kể từ năm 1950 khi Đức Giáo hoàng Pi-ô XII định tín việc Mẹ được cất nhắc về trời cả hồn lẫn xác (xem trên). Tông hiến “Munificentissimus Deus” còn nói: “Thân xác con người bị chết và bị tan rã ra tro đất là do hậu quả tội Nguyên tổ. Mà Đức Ma-ri-a không hề mắc tội Nguyên tổ, cũng chẳng hề có tội riêng. Cho nên đương nhiên và rất hợp lý là Mẹ được hồn xác về trời.” Ngoài ra, Mẹ Ma-ri-a luôn luôn kết hợp với Con mình, không giây phút nào Mẹ-Con xa nhau, ngay cả khi Chúa chịu chết trên thập giá Mẹ cũng đồng hành (Ga 19,25-27). Vậy thì không lý gì khi Mẹ cùng Con chiến đấu lại không được cùng Con chiến thắng, khi từ giã cõi trần lại chẳng được Người Con Chí Thánh Chí Nhân Chí Hiếu rước ngay lên trời để tiếp tục đồng hành với Người mà hướng dẫn Nhiệm Thể Người (Giáo Hội) còn trên dương gian. Loài người tự cổ chí kim chẳng có ai được như vậy, vì thân xác chỉ là “cái vỏ bằng đất làm linh hồn ra nặng” (Kn 9,15) và “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,19) mà thôi. Nhưng với tín điều trên, Giáo hội công bố long trọng một chân lý đã được Kitô hữu từ ngàn xưa cảm nhận: Thân xác của Người Phụ nữ đã trao ban thể xác cho Con Thiên Chúa không phải chịu định luật của sự thối rữa!

    Nền tảng của ơn đặc biệt này chính là sự phục sinh của Chúa Ki-tô, phục sinh với một thân xác đã có từ trước nhưng nay được hoàn toàn biến đổi, không còn phải chịu các định luật của không gian và thời gian. Những trình thuật về việc Chúa hiện ra cho tông đồ môn đệ sau khi sống lại quá nói rõ điều này: vẫn còn có tay chân để thân thuộc sờ mó, vẫn còn mang khuôn mặt để thân thuộc nhận ra, nhưng thoạt hiện thoạt biến, xuyên cánh cửa đi vào, lướt ngàn dặm tới ngay. Tê-pha-nô vẫn thấy Người “đứng” bên hữu Thiên Chúa (x. Cv 7,56). Với cuộc phục sinh, Ngôi Lời nhập thể đã mở ra một cách thức hiện hữu mới cho mình và cho những ai theo mình, kết hợp với mình trong Nhiệm thể: thân xác phàm trần sau khi chết sẽ không biến tan nhưng được biến đổi. Tất cả mọi vật cũng được Thiên Chúa làm mới chứ chẳng tiêu diệt (x. Kh 21,5). Lối hiện hữu này được dung nạp trong chốn Thiên đàng, nơi thế giới Thiên Chúa.

    Vì như lời Thánh Phaolô: “Chúa Ki-tô đã chỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu... mỗi người theo thứ tự của mình” (1Cr 15,20). Và Đức Mẹ là người đầu tiên cũng như là người xứng đáng nhất để hưởng ngay ân huệ đó. Còn mọi kẻ khác thì phải đợi đến Ngày quang lâm (x. 1Cr 15,23).

    KẾT LUẬN

    Công đồng chung Va-ti-ca-nô II, với Hiến chế tín lý về Giáo Hội (Lumen Gentium, Ánh sáng Muôn dân), đã nhắc lại tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời với những kết luận cho Hội Thánh và cho mỗi tín hữu: “Ngày nay, trên trời Mẹ Đức Giê-su đã được vinh hiển cả hồn và xác, là hình ảnh và khởi thủy của Hội Thánh phải hoàn thành đời sau; đồng thời, dưới đất này, cho tới ngày Chúa đến (2Pr 3,10), Ngài chiếu sáng như dấu chỉ lòng cậy trông vững vàng và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành” (số 68). Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (số 966) cũng hợp giọng: “Đức Trinh Nữ Ma-ri-a Vô Nhiễm, được Thiên Chúa gìn giữ khỏi nhiễm lây mọi tỳ vết Nguyên tội, đã được đưa lên vinh quang Thiên quốc cả hồn lẫn xác, sau khi đã hoàn tất cuộc đời dương thế, và được Thiên Chúa tôn làm Nữ Vương Vũ Trụ, và như vậy Mẹ đã hoàn toàn phù hợp với Con Mình là Chúa của các chúa, đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Cuộc lên trời của Đức Trinh Nữ rất thánh là sự tham dự độc nhất vô nhị vào sự Phục sinh của Con mình và là việc thể hiện trước sự phục sinh của các Kitô hữu khác”.

    Như đã thấy ban đầu, Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa để có tất cả; nay Ngài là Mẹ chúng ta để cho tất cả: tất cả những ân sủng đến từ Thiên Chúa, để chúng ta noi gương Mẹ mà trở nên giống Con của Ngài: điều khiển mọi bản năng, chống lại mọi tội lỗi, trung trinh trong tình yêu đối với Thiên Chúa, và luôn ước vọng phục sinh hồn xác chốn Thiên Đàng hạnh phúc, trong Chúa, bên Mẹ.

     


    [1] Xem Karl Rahner + Herbert Vorgrimler, Petit Dictionnaire de Théologie catholique. Tủ sách Livre de Vie, mục từ Mort

    Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi, TGP Huế 

    Nguồn tin:  https://hdgmvietnam.com

     

    IV.  ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI VÀ ĐỨC MẸ NGỦ

    WGPSG (14.8.2022) - Tại sao lại có hình Đức Mẹ đồng trinh đang ngủ? Hình ảnh này tương ứng với niềm tin thuở ban đầu của Giáo hội về "Đức Mẹ ngủ".

    Nhiều người trong thế giới cổ đại mô tả cái chết như là “rơi vào giấc ngủ”. Khái niệm này cũng thấy có trong Kinh Thánh, như lời cầu nguyện trong Thánh Vịnh: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, xin đoái nhìn và thương đáp lại, toả ánh sáng cho đôi mắt rạng ngời, để con khỏi ngủ giấc ngàn thu.” (Tv 13, 4).

    Thánh Phaolô cũng sử dụng hình ảnh này trong Thư gửi tín hữu Thessalonica để nói đến việc Chúa cho kẻ chết sống lại: “Những người đã an giấc trong Đức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giêsu” (1 Tx 4,14).

    Khi chiêm ngưỡng mầu nhiệm Đức Maria ra khỏi thế giới này, nhiều Kitô hữu thời sơ khai gọi đó là “Giấc ngủ của Đức Maria”. Điều này làm nổi bật niềm tin rằng Đức Maria đã chết trước khi được lên thiên đàng.

    Thánh Gioan thành Damas, vào thế kỷ thứ 8, kể lại rằng: “Thánh Juvenal, Giám mục thành Giêrusalem, tại Công đồng Chalcedon (451), đã nói… rằng Đức Maria đã chết trước sự chứng kiến ​​của tất cả các Tông đồ, nhưng ngôi mộ của Mẹ, khi được mở ra theo yêu cầu của Thánh Tôma, đã trống không; từ đó các Tông đồ kết luận rằng: thân xác Đức Mẹ đã được đưa lên trời."

    Truyền thống đặc biệt này rất phổ biến trong Giáo hội sơ khai và có nhiều biến thể khác nhau, nhưng hầu hết đều xoay quanh việc Đức Maria đã chết trước sự chứng kiến ​​của các Tông đồ. Giáo hội Đông phương vẫn cử hành lễ “Giấc ngủ của Mẹ Thiên Chúa” vào ngày 15-8, cùng ngày với người Công giáo Rôma mừng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Cả hai đều kỷ niệm cùng một sự kiện, nhưng sử dụng các thuật ngữ khác nhau và nhấn mạnh các khía cạnh khác nhau của nó.

    Giáo hội không chính thức nói Đức Maria được lên thiên đàng như thế nào, hoặc Mẹ có chết trước khi về trời hay không. Giáo Hội chỉ dạy rằng “Đức Trinh Nữ Maria đã hoàn thành cuộc đời dương thế, đã được vào vinh quang thiên quốc cả hồn và xác.” Tuy nhiên, Thánh Gioan Phaolô II đã nói đến điều này trong một buổi tiếp kiến ​​chung: “Để được chia sẻ sự Phục sinh của Đức Kitô, trước tiên Đức Maria phải chia sẻ cái chết của Chúa”. Việc an nghỉ và lên trời là một ân sủng độc nhất được ban cho Đức Maria, hoa trái từ ơn Vô nhiễm Nguyên tội của Mẹ.

    Với ý nghĩ này, nhiều họa sĩ thời cổ đại đã vẽ cảnh Đức Mẹ ngủ trên giường, xung quanh là các Tông đồ. Chúa Giêsu thường hiện diện ở trung tâm bức tranh, cầm hình thu nhỏ của Đức Maria, biểu trưng cho việc Chúa Giêsu đưa xác và hồn trong sáng của Mẹ Maria lên thiên đàng.

    Đây là một hình ảnh đẹp, giúp ta suy ngẫm và nhớ đến cách chúng ta sẽ yên nghỉ trong vòng tay của Đấng Cứu Độ.

    Tác giả: Philip Kosloski

    Chuyển ngữ: Vi Hữu

    Nguồn tin:  https://hdgmvietnam.com/

    Bài viết liên quan