“Ngôi Lời đã làm người”: Ý nghĩa thần học và phụng vụ của mùa Giáng sinh

  • 18/12/2025 21:01
  • WHĐ (18/12/2025) – Việc tìm hiểu ý nghĩa thần học và phụng vụ của mùa Giáng sinh không chỉ giúp chúng ta cử hành phụng vụ cách ý thức và sốt sắng hơn, nhưng còn định hướng cả đời sống đức tin và sứ vụ của tín hữu.

    Dẫn nhập

    1. Cử hành lòng nhân lành của Thiên Chúa

    2. Một thời gian phân cực và tương phản

    3. Cử hành “cuộc trao đổi thiêng thánh” giữa Thiên Chúa và con người

    4. Thời gian làm sống lại chiều kích truyền giáo của Giáo hội

    5. Sự cao trọng của Đức Maria

    Kết luận

     

    Dẫn nhập

    Mùa Giáng sinh không chỉ là một chuỗi các lễ kỷ niệm mang tính cảm xúc hay hoài niệm về một biến cố đã xảy ra trong quá khứ, nhưng trước hết và trên hết là một thời gian phụng vụ trong đó Giáo hội cử hành mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo: mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể. Qua việc cử hành này, Giáo hội không ngừng chiêm ngắm và công bố sáng kiến cứu độ của Thiên Chúa, Đấng đã tự hạ để bước vào lịch sử nhân loại, chia sẻ trọn vẹn thân phận con người, ngoại trừ tội lỗi, hầu đưa con người vào sự sống thần linh của chính Ngài.

    Trong bối cảnh phụng vụ, mùa Giáng sinh mang một chiều kích thần học phong phú và đa tầng: vừa mặc khải lòng nhân lành vô biên của Thiên Chúa, vừa đặt con người trước những tương phản sâu sắc của mầu nhiệm đức tin; vừa loan báo một “cuộc trao đổi thiêng thánh” giữa Thiên Chúa và nhân loại, vừa khơi dậy nơi Giáo hội ý thức truyền giáo mạnh mẽ; đồng thời, mùa này cũng làm nổi bật vai trò độc nhất vô nhị của Đức Maria trong chương trình cứu độ. Do đó, việc tìm hiểu ý nghĩa thần học và phụng vụ của mùa Giáng sinh không chỉ giúp chúng ta cử hành phụng vụ cách ý thức và sốt sắng hơn, nhưng còn định hướng cả đời sống đức tin và sứ vụ của tín hữu.

    1. Cử hành lòng nhân lành của Thiên Chúa

    Trước hết, mùa Giáng sinh phải là thời gian dể chúng ta hướng đến và chiêm ngắm lòng nhân lành, sự thiện hảo của Thiên Chúa bởi vì Giáng sinh là một biến cố “không thể tin nổi” khi Thiên Chúa bày tỏ tình yêu tự hạ (kenosis) của Ngài (x. Pl 2,6–8): xuống thế làm người và ở giữa chúng ta (x. Mt 1, 18-24). Ngài là Thiên Chúa quyền uy và toàn năng lại trở nên một hài nhi bé nhỏ và yếu ớt phải cậy dựa vào sự chăm sóc và trợ giúp của người mẹ nhân loại. Thật đúng như lời Thánh Phaolô rao giảng về Thập giá của Đức Kitô như là sự điên rồ trước mắt thế gian (x. 1Cr 1, 17-25), cũng có thể nói như vậy đối với mầu nhiệm Nhập thể. Động cơ duy nhất và tột đỉnh đàng sau kế hoạch diệu vời này của Thiên Chúa chỉ có thể là bởi lòng nhân lành và tình thương của Ngài: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài” (Ga 3, 16). Những bản văn phụng vụ lễ Giáng sinh 25/12 đều mô tả cho chúng ta thấy lòng nhân hậu của Thiên Chúa được bày tỏ nơi cuộc Giáng sinh của Đức Giêsu.

    Phụng vụ không cử hành chỉ để chúng ta nhìn lại quá khứ một biến cố đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm hay để chúng ta có thể chạm đến mầu nhiệm tình thương này theo tình cảm.[1] Đúng hơn, phụng vụ mời gọi chúng ta khám phá ra ân sủng, lòng thương xót và nhân ái của Thiên Chúa đã có từ ngàn xưa qua các biến cố, qua cả biến cố nhập thể; và tình thương của Thiên Chúa vẫn đang tiếp tục hoạt động trong cuộc đời của riêng mỗi người. Thách đố đối với chúng ta trong mùa Giáng sinh là hãy trở thành khí cụ tình thương của Thiên Chúa cho người khác và biết đem một chút ánh sáng cũng như niềm vui vào trong bóng đêm của thế giới tăm tối này.

    2. Một thời gian phân cực và tương phản

    Mùa Giáng sinh được ví như hình elip với 2 trung tâm: [i] Trung tâm thứ I là sự khiêm hạ và nghèo hèn; [ii] Trung tâm thứ II là toàn năng và huy hoàng. Một trung tâm là nơi reo vui và hạnh phúc vì tình thương cứu độ của Thiên Chúa; còn trung tâm kia là cảm nghiệm về một Thiên Chúa vĩ đại nhưng như thể “cần đến” chúng ta. Đây là thời gian của những tương phản rõ rệt, tất cả được thắt nối và phối hợp với nhau trong mầu nhiệm của Đấng vừa là Thiên Chúa vừa là con người một trật.[2]

    Sự khiêm hạ và nghèo hèn của biến cố Chúa Giáng sinh tỏ lộ trong nhiều hoàn cảnh. Với lễ Giáng sinh, chúng ta tưởng niệm Chúa hạ sinh trong một máng cỏ vì không có nơi chỗ cho Ngài trong quan trọ. Cuộc hạ sinh của Ngài được mặc khải cho những mục đồng thấp kém trong xã hội. Lễ Thánh Gia và lễ các thánh Anh hài nhắc nhớ chúng ta rằng Chúa bị bách hại bởi bàn tay của vua Hêrôđê và phải sống kiếp tị nạn bên Ai Cập. Lễ Chúa chịu phép rửa gợi cho chúng ta biết Đấng Thánh đã đi vào trong hàng ngũ tội nhân để lãnh phép rửa thống hối của Gioan. Điều này khiến Gioan Tẩy Giả hết sức kinh ngạc, ông một mực can Người và nói: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” (Mt 3, 14). Tương phản với sự khiêm hạ và nghèo hèn đó là ánh vinh quang rực rỡ được mặc khải trong biến cố Chúa ra đời. Trong lễ Hiển linh, các đạo sĩ từ phương trời xa xăm đã tìm đến với Hài Nhi Giêsu, và sau khi đã tìm thấy Ngài, họ dâng hiến lễ vật cũng như bái thờ Ngài. Còn trong chính lễ Giáng sinh, vinh quang Thiên Chúa trở nên hữu hình khi thiên thần từ trời loan báo tin vui cho các mục đồng và đông đảo các thiên thần ca hát chúc tụng Thiên Chúa (Lc 2, 13). Trong lễ Chúa chịu phép rửa, chúng ta nghe từ phụng vụ Lời Chúa rằng các tầng trời mở ra và Thánh Thần của Thiên Chúa ngự xuống trên Đức Giêsu, đồng thời có tiếng phán từ trời rằng, Ngài là con yêu dấu của Chúa Cha (x. Mt 3, 13-17).

    Có một sự phân cực khác trong mùa Giáng sinh. Đó là, một mặt, lòng nhân ái của Thiên Chúa vươn chạm đến chúng ta qua nhiều cách thế. Mặt khác, chúng ta lại thấy chính Thiên Chúa như là Đấng đang ảnh hưởng và thậm chí như thể “răn đe” như thế nào.

    Chúng ta có thể cảm nghiệm được lòng nhân ái của Thiên Chúa trong tất cả cách thế tỏ hiện của Ngài: sinh ra như một hài nhi bé bỏng và yếu ớt (lễ Giáng sinh); sinh ra bởi một phụ nữ và nên tương tự chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi (lễ Mẹ Thiên Chúa); Ngài đi vào thế giới để kêu gọi mọi người đến với ơn cứu độ (lễ Hiển linh: các đạo sĩ từ phương Đông); Ngài chấp nhận phép rửa thống hối để bày tỏ sự liên đới của một Đấng vô tội với chúng ta là những tội nhân (lễ Chúa chịu phép rửa).

    Chúng ta lại cũng có thể cảm nghiệm được trong mùa Giáng sinh một Thiên Chúa đang đòi hỏi chúng ta và thậm chí đòi hỏi cả sự sống chúng ta nữa. Lễ Thánh Stephanô - ngay sau lễ Giáng sinh - là một minh chứng cho mọi thời đại biết rằng Con Trẻ ở trong máng cỏ không chỉ toàn là ngọt ngào dịu êm và không ảnh hưởng gì, nhưng là một “thách đố” cho mỗi người chúng ta. Thánh Stêphanô được kêu gọi để trở nên chứng tá của Ngài. Kết quả là, Stêphanô bị thử thách, bị chống đối và bị ném đá đến mất mạng (x. Cv 7, 59). Câu chuyện về các thánh anh hài cũng vậy, là một bằng chứng cho thấy Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ có một ảnh hưởng to tát trên lịch sử và cuộc sống nhân loại. Các thánh Anh hài đã phải đổ máu để chuẩn bị con đường cho Đấng Cứu Độ (x. Mt 2, 16-18). Thiên Chúa chúng ta - trong hình hài của một em bé yếu ớt và bé bỏng - lại chính là Thiên Chúa nắm giữ chủ quyền tuyệt đối và có thể làm bất cứ điều gì Ngài muốn. Ngài không cần ai làm cố vấn cho mình và đặc biệt không cần con người chấp thuận cho những đường lối của Ngài. Nếu trí tuệ con người giới hạn của chúng ta không thể nắm bắt hay thông hiểu được thì chúng ta vẫn tin rằng Thiên Chúa đang hành động luôn luôn chỉ vì những điều tốt đẹp cho con người. Cân nhắc tất cả những thực tại này khiến chúng ta nhận ra rằng lễ Giáng sinh và mùa Giáng sinh không chỉ là thời gian của tình cảm và lãng mạn nhưng đôi khi đòi hỏi chúng ta phải đương đầu và chấp nhận những thực tại khó khăn của đời sống Kitô hữu cũng như của các biến cố trong thế giới.

    3. Cử hành “cuộc trao đổi thiêng thánh” giữa Thiên Chúa và con người

    Hạn từ “cuộc trao đổi thiêng thánh” được sử dụng bởi các giáo phụ trong những bài viết hoặc bài giảng của các ngài nhằm nắm bắt thực tại thiêng liêng thực sự của mùa Giáng sinh. Qua cụm từ này, các giáo phụ muốn nói rằng, nhờ thực tại nhập thể của Thiên Chúa mà toàn thể thọ tạo và đặc biệt là loài người được thánh hóa và nâng lên một phẩm giá cao trọng hơn. Thánh Irênê đã nói về Đức Kitô như sau: “Người đã trở nên giống chúng ta, để chúng ta trở thành như Người.[3] Đó không phải là một sự thần hóa đích thật và trọn vẹn trong Con Thiên Chúa nhập thể hay sao? Thánh Clêmentê (thành Alexandria) và Grêgorio (thành Naziance) đã biến đổi suy tư ấy một cách sâu xa khi quả quyết: “Chúa đã làm người để con người làm Chúa”. Chúng ta lại thấy câu này xuất hiện sau đó trong tác phẩm De Incarnatione Verbi (đoạn 54) của thánh Athanasius (Alexandria).[4] Thánh Lêô Cả giải thích thêm: Đấng Tạo Hóa đã hạ mình làm người, hầu cho phép nhân loại tìm thấy chính mình trong bản chất của Ngài.[5] Quả thật, Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh và giống như Đấng Tác Tạo (x. St 1, 26-27), nay qua mầu nhiệm Giáng sinh, Thiên Chúa cư ngụ trong thân xác con người, Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta (x. Mt 1, 18-24). Về mặt thần học, sự kiện này cho thấy sự liên đới mật thiết của Thiên Chúa với nhân loại, khởi xướng ơn cứu độ bằng cách kết hợp thần tính và nhân tính trong một Ngôi Vị duy nhất của Chúa Kitô, cho phép các tín hữu được chia sẻ sự sống của Thiên Chúa.[6] Về mặt phụng vụ, mùa Giáng sinh - từ ngày Giáng sinh cho đến lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa - làm cho mầu nhiệm này hiện diện một cách bí tích, vượt lên trên sự tưởng niệm đơn thuần để thúc đẩy sự biến đổi trong các tín hữu.[7]

    Xét về phía nhân loại: [i] Mầu nhiệm Nhập thể mở ra sự cứu chuộc: Thiên Chúa bước vào lịch sử để chiến thắng tội lỗi và cái chết, làm cho những người tin trở thành "người thừa kế của Thiên Chúa và đồng thừa kế với Chúa Kitô" (x. Rm 8,17); [ii] Nhờ mầu nhiệm Nhập thể mà giờ đây, con người được tham dự vào bản tính Thiên Chúa, trở thành người cộng tác trong bản tính Thiên Chúa. Vì vậy, chúng ta được mời gọi tham gia vào đời sống Thiên Chúa qua Bí tích Thánh Thể - nơi Ngôi Lời Nhập Thể nuôi dưỡng muôn đời; được mời gọi hãy từ chối trở lại sự thấp hèn cũ xưa và đừng quay về với tội lỗi nữa. Giờ đây, chúng ta đã được cứu thoát khỏi quyền lực của bóng tối và được đem vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền trong vương quốc của Thiên Chúa (x. Ep 5,8; Pl 2,15).[8]

    Xét về phía thế giới: nhờ mầu nhiệm Nhập thể, mà trái đất - nơi con người cư ngụ - đã trở nên nơi thánh cho Thiên Chúa đến gặp gỡ và tiếp xúc với con người. Bởi thế, cuốn Tử đạo thư Rôma đề cập về ngày lễ Giáng sinh 25/12 rằng Chúa Kitô đã trở nên người phàm hầu “thánh hiến thế gian”. Phẩm tính này không thể mất đi cho dù vẫn còn quá nhiều thế lực phá hủy sự thiêng thánh này tại nhiều nơi trên thế giới. Đây là một thách đố đối với con người nói chung và đối với Kitô hữu nói riêng. Đó là lý do tất cả chúng ta phải dấn thân hơn nữa để phục vụ thế giới và làm nhiều hơn nữa hầu cải thiện thế giới này thành nơi cho sự công chính và nền hòa bình viên mãn của Thiên Chúa ngự trị. Như vậy, những ngày trong mùa Giáng sinh không chỉ là lời cầu nguyện tĩnh tại, nhưng như là một kinh nguyện dẫn chúng ta đến hoạt động và dấn thân.

    4. Thời gian làm sống lại chiều kích truyền giáo của Giáo hội

    Với biến cố Chúa giáng sinh, ơn cứu độ đã đến thế gian. Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài xuống trần gian không có một mục tiêu nào khác hơn là chiếu soi những ai còn trong tăm tối và làm cho họ trở thành con cái ánh sáng (x. Ga 1,5; 8,12; 12,35).[9] Đây chính là sứ điệp của lễ Hiển linh: Chúa Kitô mang ơn cứu độ không chỉ cho dân Israel mà còn cho mọi người thiện chí. Lễ Dâng Chúa vào đền thờ - trước đây nằm trong mùa Giáng sinh (nay nằm ngoài mùa này nhưng vẫn có liên hệ) - cũng dạy chúng ta cùng một sứ điệp: Chúa Kitô là ánh sáng và là ơn cứu độ của toàn thế giới. Do vậy, cử hành lễ Giáng sinh có nghĩa là nhận ra và tôn vinh kế hoạch của Thiên Chúa khi Ngài sai Con Một đến thế gian không phải để lên án thế gian nhưng là mời gọi mọi người được hưởng ơn cứu độ. Các môn đệ của Chúa Kitô phải gắn bó và tiếp tục sứ mệnh này, tức là đi vào giữa lòng thế giới để làm chứng - bằng lời nói và gương sống của mình - về ơn cứu độ của Thiên Chúa đến với mọi người qua Đức Giêsu Kitô. Đây là chiều kích truyền giáo của lễ Giáng sinh và mùa Giáng sinh cần được nhấn mạnh trong khi cử hành phụng vụ để mọi tín hữu ý thức hơn và nỗ lực hơn cho hoạt động truyền giáo của Giáo hội Chúa Kitô.

    5. Sự cao trọng của Đức Maria

    Không thể không nhắc đến Đức Maria trong mùa Giáng sinh vì Mẹ là Thân mẫu của Thiên Chúa làm người. Trong phụng vụ tuần cuối cùng của mùa Vọng, Đức Mẹ được trình bày như một tấm gương vĩ đại và lý tưởng về tâm tình cũng như thái độ trông chờ và khát mong Chúa đến. Chúng ta không ngạc nhiên khi Tin mừng ngày lễ Giáng sinh nói về Mẹ và ngày đầu năm mới, vốn nằm trong mùa Giáng sinh, Giáo hội cử hành trọng thể mừng kính Đức Maria là Thánh mẫu của Thiên Chúa.[10] Đức Mẹ cũng được chú ý tới trong lễ Hiển linh khi chúng ta tưởng niệm sự kiện các đạo sĩ từ phương Đông quá đỗi mừng vui khi họ tìm thấy Hài Nhi Giêsu cùng với Mẹ Người tại Bêlem. Trong toàn bộ lễ Giáng sinh, Mẹ Maria được nối kết không thể tách rời với Chúa Giêsu. Quả thực, Mẹ đã lắng nghe và tuân theo Lời Chúa. Mẹ đã sẵn sàng trở nên nữ tỳ hèn mọn hầu phục vụ Chúa hết mình và làm cho cuộc hạ sinh Con Thiên Chúa được diễn ra. Chính vì vậy, Đức Mẹ có một chỗ đứng đặc biệt trong phụng vụ của mùa Giáng sinh. Nguồn gốc vai trò tuyệt vời này của Đức Mẹ trong mầu nhiệm Nhập thể cũng như sự thánh thiện và hồng phúc của Đức Mẹ đều đến từ Thiên Chúa – Đấng đã làm cho Đức Mẹ những điều trọng đại. Chính Thiên Chúa đã cất nhắc Mẹ lên địa vị cao sang dù Mẹ tự nhận mình chỉ là nữ tỳ thấp hèn của Chúa (x. Lc 1, 46-56).

    Kết luận

    Như vậy, khi chiêm ngắm toàn bộ tinh thần và nội dung của mùa Giáng sinh, chúng ta nhận ra rằng đây không chỉ là thời gian của ánh sáng, niềm vui và bình an theo nghĩa cảm xúc, nhưng là một thời gian ân sủng mời gọi các tín hữu bước vào chiều sâu của mầu nhiệm Nhập thể. Qua đó, Giáo hội cử hành lòng nhân lành của Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương con người đến mức tự hiến chính mình; đồng thời, Giáo hội cũng giúp các tín hữu ý thức rằng mầu nhiệm Giáng sinh luôn mang trong nó những tương phản, những đòi hỏi và thách đố của đời sống đức tin.

    Mùa Giáng sinh làm nổi bật “cuộc trao đổi thiêng thánh” giữa Thiên Chúa và con người: Thiên Chúa làm người để con người được nâng lên và tham dự vào sự sống của Thiên Chúa; thế giới được thánh hiến để trở thành không gian gặp gỡ giữa Đấng Tạo Hóa và thụ tạo. Chính từ nền tảng này, chiều kích truyền giáo của Giáo hội được khơi dậy cách mạnh mẽ, bởi lẽ mầu nhiệm Nhập thể không thể bị giữ kín trong nội bộ cộng đoàn tín hữu, nhưng phải được loan báo và làm chứng giữa lòng thế giới bằng đời sống, lời nói và hành động cụ thể.

    Sau cùng, hình ảnh Đức Maria – Thân Mẫu Thiên Chúa – như một điểm quy chiếu không thể thiếu vắng của mùa Giáng sinh, mời gọi các tín hữu học nơi Mẹ thái độ lắng nghe, vâng phục và phó thác trọn vẹn trước kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa. Nhờ đó, việc cử hành mùa Giáng sinh không dừng lại ở nghi thức phụng vụ, nhưng trở thành một kinh nghiệm biến đổi, dẫn đưa người tín hữu đến một đời sống đức tin trưởng thành hơn, dấn thân hơn, và trung thành hơn với sứ mạng mà Thiên Chúa đã trao phó cho Giáo hội giữa lòng nhân loại hôm nay.

    Nguồn tin: https://hdgmvietnam.com/


    [1] X. Đức Bênêđictô XVI, “Light in the Christmas Season”, Tiếp kiến chung ngày 05/01/2011

    [2] X. Công đồng Calcedonia, DS 301–302.

    [3] De Incarnatione, 54,3.

    [4] X. Athanasius of Alexandria. De Incarnatione Verbi. Translated texts in Nicene and Post-Nicene Fathers, Series II, vol. 4. Peabody: Hendrickson, 1994.

    [5] Sermon 21 (22), De Nativitate Domini, 2.

    [6] X. Công đồng Calcedonia, DS 301–302; Gaudium et Spes 22.

    [7] X. Pope Benedict XVI, “Spiritual meaning of Christmas” in General Audience of 17 December 2008; “Nativity of the Lord, Mystery of Joy and Light” in General Audience of 4 January 2012; “Holy Christmas” in General Audience of 21 December 2011.

    [8] X. Pope Benedict XVI, “Light in the Christmas Season” in General Audience of 5 January 2011; “He became a man” in General Audience of 9 January 2013.

    [9] Kinh Tiền Tụng Giáng Sinh I.

    [10] Thánh GH Phaolô VI, Tông Huấn Marialis Cultus, số 5.

    Bài viết liên quan