Suy niệm Tin mừng Lễ Dâng Chúa trong đền thờ - Lễ Kính (Lc 2, 22-40)

  • 31/01/2025 12:43
  • “Lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi” (Lc 2, 29).

    1. Bài đọc 1: Ml 3, 1-4

    “Ðấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm, đến trong đền thánh Người”.

    Trích sách Tiên tri Malakhi.

    Này đây Chúa là Thiên Chúa phán: “Ðây Ta sai thiên thần Ta đi dọn đường trước mặt Ta!” Lập tức Ðấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm, và thiên thần giao ước mà các ngươi mong ước, đến trong đền thánh Người. Chúa các đạo binh phán: “Này đây Người đến”. Ai có thể suy tưởng đến ngày Người đến, và có thể đứng vững để trông nhìn Người? Vì Người sẽ như lửa thiêu đốt, như thuốc giặt của thợ giặt. Người sẽ ngồi như thợ đúc và thợ lọc bạc, Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi, và làm cho chúng nên sạch như vàng bạc. Chúng sẽ hiến dâng lễ tế cho Chúa trong công bình. Lễ tế của Giuđa và Giêrusalem sẽ đẹp lòng Chúa, như ngày xưa và như những năm trước. Ðó là lời Chúa toàn năng phán.

    Ðó là lời Chúa.

     

    2.  Đáp ca: Tv 23, 7. 8. 9. 10

    Ðáp: Vua hiển vinh là ai vậy?

    Xướng:

    1) Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên; vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu! để Vua hiển vinh Người ngự qua.

    2) Nhưng Vua hiển vinh là ai vậy? Ðó là Chúa dũng lực hùng anh, đó là Chúa anh hùng của chiến chinh.

    3) Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên, vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu, để vua hiển vinh Người ngự qua.

    4) Nhưng Vua hiển vinh là ai vậy? Ðó là Chúa đạo thiên binh, chính Người là Hoàng Ðế hiển vinh. 

     

    3. Bài đọc 2: Dt 2, 14-18

    “Người phải nên giống anh em mình mọi đàng”.

    Trích thư gửi tín hữu Do thái.

    Vì các con trẻ cùng chung thân phận máu thịt, chính Chúa Giêsu cũng giống như chúng, cũng thông phần điều đó, để nhờ cái chết của Người mà Người huỷ diệt kẻ thống trị sự chết là ma quỷ, và để giải thoát tất cả những kẻ sợ chết mà làm nô lệ suốt đời. Vì chưng Người không đến cứu giúp các thiên thần, nhưng đến cứu giúp con cái Abraham. Bởi thế, Người nên giống anh em Mình mọi đàng, ngõ hầu trong khi phụng sự Chúa, Người trở thành đại giáo trưởng nhân lành và trung tín với Chúa, để đền tội cho dân. Quả thật, bởi chính Người đã chịu khổ hình và chịu thử thách, nên Người có thể cứu giúp những ai sống trong thử thách.

    Ðó là lời Chúa.

     

    4.  Tin Mừng: Lc 2, 22-40

    “Lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi”.

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.

    22 Khi đã đủ thời gian, đến ngày các ngài phải được thanh tẩy theo luật Msê, bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa, 23 như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được thánh hiến, dành riêng cho Chúa”. 24 Ông bà cũng lên để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. 25 Hồi ấy ở Giêrusalem, có một người tên là Simêôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Israel, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. 26 Ông đã được Thánh Thần linh báo là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa. 27 Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để làm điều người ta quen làm theo luật dạy, 28 thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng :

    29“Muôn lạy Chúa, giờ đây
    theo lời Ngài đã hứa,
    xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
    30Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ
    31Chúa đã dành sẵn cho muôn dân :
    32Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
    là vinh quang của Israel Dân Ngài.”

    33 Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những điều người ta nói về Người. 34 Ông Simêôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Maria, mẹ của Hài Nhi: “Cháu bé này được đặt làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. 35 Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà. Như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra.”

    36 Lại cũng có một nữ ngôn sứ là bà Anna, con ông Pơnuên, thuộc chi tộc Ase. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, 37 rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, đêm ngày thờ phượng Thiên Chúa. 38 Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết thảy những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem.

    39 Khi hai ông bà đã hoàn tất mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về thành của mình là Nazareth, miền Galilê. 40 Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.

    Đó là Lời Chúa.

     

    5. Suy niệm: 

    Khi xuống thế làm người, Chúa Giêsu đã sống trọn kiếp phàm nhân ngoại trừ tội lỗi. Ngài luôn khát khao cho con người được hạnh phúc. Trong bài Tin mừng hôm nay, ta chiêm ngắm biến cố Chúa Giêsu là con Thiên Chúa xuống thế làm người được cha mẹ dâng trong đền thờ cho Thiên Chúa, cũng như bao trẻ Do Thái khác, “mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa” (Lc 2, 23). Với biến cố này, ta thấy gia đình thánh gia cũng thuộc về một đất nước, một tôn giáo, luôn sống và thực thi lề luật cách trọn vẹn; hơn nữa ta còn thấy việc Chúa Giêsu tỏ mình cho nhân loại, cụ thể nơi lời cụ già Simeon và thánh Anna, những con người thánh thiện đạo đức, một đời sống gắn bó với Chúa trong đền thờ: “Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel dân Ngài” (Lc 2, 32). Ngài là ánh sáng đến chiếu soi trần gian còn u mê, giúp những tâm hồn còn hận thù, oán ghét nhận được niềm vui ơn cứu độ. Là người kitô hữu khi lãnh nhận bí tích rửa tội ta đã được lãnh nhận cây nến sáng, đó chính là ánh sáng của Đức Kitô. Và hôm nay mỗi chúng ta cần xem lại ánh sáng nơi mình như thế nào? Tôi có để ánh sáng Chúa soi dẫn đời sống tôi không? Tôi có trở nên ánh sáng để dẫn người khác tới Chúa không?

    Sau những năm tháng mong chờ, khao khát Chúa, hôm nay Chúa đã cho cụ già Simêon và bà Anna được thỏa niềm mong đợi. Các ngài đã cảm nghiệm sâu sắc: có Chúa là tất cả. Trong niềm hạnh phúc, cụ già simêon đã thốt lên: “Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ, Chúa đã dành sẵn cho muôn dân” (Lc 2, 29-31). Quả thật có Chúa là có tất cả. Mỗi chúng ta hãy sống hy vọng vào Chúa, hãy khao khát tìm kiếm Chúa. Ngài sẽ cho ta được thỏa lòng, được bình an và hạnh phúc vĩnh cửu.

    Chúa Giêsu được tiến dâng cho Thiên Chúa, của lễ tinh tuyền đẹp lòng Chúa Cha. Người chính là Con yêu dấu của Chúa Cha (x.Mc 1,11), nhập thể làm người để hiệp hành, dẫn con người đến với Cha. Ta có thể hiểu những người sống đời tu trì cũng là những của lễ được thánh hiến cho Thiên Chúa. Hơn bao giờ hết, giữa một xã hội đề cao chủ nghĩa cá nhân, “tôn thờ” lối sống hưởng thụ thì người tu sĩ cần trở nên dấu chứng, trở nên niềm hy vọng cho nhân loại qua việc sống kết hợp mật thiết với Chúa, sống lời khấn cách tích cực, ý thức mình thuộc về một Thiên Chúa, một Giáo hội, một Hội dòng,… Người tu sĩ cần sống tinh thần hiệp thông sâu xa với anh chị em; trong Chúa Thánh Thần, mọi người cùng nhau thi hành sứ vụ. Người tu sĩ cần trở nên ánh sáng chiếu soi những nơi tăm tối, là ngọn lửa ấm áp sưởi ấm những tâm hồn băng giá, mang niềm vui mừng và hy vọng đến những nơi thất vọng, u buồn như Đức Thánh Cha Phanxicô đã tin tưởng khích lệ “ở đâu có tu sĩ ở đó có niềm vui”.

    Cầu nguyện

    Lạy Chúa! Là người đang bước đi theo Chúa trong ơn gọi tu trì, con xin phó thác cuộc đời con cho Chúa, đặc biệt trong năm mới Ất Tỵ này. Xin thắp lên nơi con ngọn lửa tình yêu Chúa để con luôn khao khát, luôn gắn kết đời sống con với Chúa, luôn ý thức mình thuộc về Thiên Chúa, thuộc về Hội dòng mà con đang sống. Ước mong sao chúng con luôn trở nên niềm vui cho những người sống bên chúng con, phản chiếu ánh sáng của Chúa đến những người chưa nhận biết Chúa. Amen

    Tập sinh Đa Minh Thái Bình.

    Bài viết liên quan