Ảnh hưởng của xã hội trên người trẻ

  • 12/10/2025 21:15
  • Một con người chân chính luôn phải biết sống tâm tình tri ân, sống thái độ "mắc nợ nghĩa tình" với lịch sử, với dân tộc và với nhân loại; tri ân vì mạch nguồn chân lý mà mình được thông dự. Đó là điều thiết hụt của giới trẻ Việt Nam ngày nay.

    1. Nhìn lại bộ mặt thế giới hiện nay

    1.1. Tiến bộ và khủng hoảng

    1.2. Thách đố muôn đời của văn hoá

    1.3. Dáng đi đích thực của nhân loại

    2. Cấu trúc và dáng dấp xã hội thay đổi

    2.1. Văn hoá nhanh – xã hội mất căn tính

    2.1.1. Văn hoá nhanh lan rộng khắp nơi

    2.1.2. Xã hội mất căn tính

    2.2. Đảo ngược nếp sống “an cư - lạc nghiệp”

    2.3. Hụt hẫng trong thế giới tương đối

    2.4. Phẩm giá lung lay

    2.4.1. Phẩm giá người

    2.4.2. Phẩm giá và chức năng

    2.4.3. Phẩm tính và hiệu năng

    2.5. Văn hoá loại trừ

    3. Hệ quả trong tâm thức con người

    3.1. Thiếu hụt đời sống nội tâm

    3.2. Nỗi sợ và tâm thức đối phó

    3.3. “Trao đổi” lấn lướt “trao tặng”

    3.4. Bài toán thay thế câu chuyện

    3.5. Sung sướng mà không Hạnh phúc

    4. Thử khám phá những nguyên nhân gây bùng phát

    4.1. Con người cần quy chuẩn tuyệt đối và chân thực

    4.2. Con người cần lãnh nhận chân lý

    Tạm kết 

    1. Nhìn lại bộ mặt thế giới hiện nay

    1.1. Tiến bộ và khủng hoảng

    Thế giới hiện đại quả thật quá văn minh. Những thành tựu về nhiều khía cạnh của thời đại này, chẳng những về khoa học, về kỹ thuật, về kinh tế; và cả những tiến bộ về văn hóa hoặc giá trị nhân bản... là những điều khó có thể phủ nhận. Tuy nhiên, điều ngược ngạo là thế giới văn minh hiện đại ấy lại càng ngày càng rối rắm do tính chất quá tế vi của sự sống nói chung và sự sống của con người nói riêng, khiến cho những tiến triển về phương diện này lại luôn kéo theo những tai họa về phương diện khác. Ở thế kỷ XVIII và XIX, văn minh Tây phương đã hào hứng bao nhiêu, lạc quan bao nhiêu về năng lực con người, về những thành tựu rực rỡ mà con người đã đạt được và như chắc chắn sẽ đạt được, thì đến đầu thế kỷ XX và sang đến thế kỷ XXI này, con người lại rơi vào tình cảnh rối rắm bấy nhiêu. Chính những điều tưởng như thành tựu lại hé mở vực thẳm trong lòng của nó. Những mô hình xã hội lý tưởng nhất đã sụp đổ, những cơ cấu kinh tế phát triển vẫn không giải thoát nhiều người khỏi cảnh nghèo đói, những phương tiện khoa học kỹ thuật phong phú lại làm con người đánh mất những tương quan lành mạnh....; và nhất là những giá trị như những phẩm tính siêu hình của thế giới bị đổi thay rất nguy hiểm…

    Những nét ngược ngạo của thế giới hiện đại không phải là những thách đố bình thường của qui luật phát triển, cũng không phải chỉ là những khó khăn trên ngọn mà con người gặp phải trên hành trình văn minh hóa, nhưng chính là những dấu hiệu của một sự rạn vỡ ở nền tảng, những dấu hiệu cho thấy một sự trật hướng trên hành trình phát triển... Điều nguy hiểm nữa là những lệch lạc ấy đã hình thành nên những cấu trúc, trở thành một bộ máy khổng lồ, vận hành như một “chế độ độc tài” của cơ chế, có thể gọi được là thứ "lỗi hệ thống", mà những nỗ lực của cả nhân loại cũng khó có thể sửa chữa được. Do đó, có biết bao cá nhân đã bị lôi kéo, xô đẩy, dun dủi và hoàn toàn không thể chống cưỡng được và trở thành nạn nhân, trở thành những “tội phạm đáng thương”.

    Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô, trong thông điệp Laudato si, đã nói:

    "Chúng ta đang đối diện không phải với hai cuộc khủng hoảng riêng biệt, một bên là cuộc khủng hoảng về môi trường, một bên là cuộc khủng hoảng xã hội, nhưng là một cuộc khủng hoảng phức tạp bao trùm cả xã hội lẫn môi trường. Các chiến lược giải quyết đòi hỏi một lối tiếp cận toàn diện để chiến đấu chống nghèo đói, trả lại phẩm giá cho những người bị loại trừ khỏi xã hội, và đồng thời bảo vệ thiên nhiên".[1]

    Khủng hoảng môi sinh bắt nguồn từ khủng hoảng xã hội, rồi cả hai tương tác với nhau làm nên một cuộc khủng hoảng kép. Điều đó cũng đã được Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II diễn tả là một cuộc khủng hoảng văn hoá, một cuộc khủng hoảng tồi tệ chưa từng thấy; và một cách sâu xa, chúng ta cũng có thể gọi được đây là cuộc khủng hoảng về đức Tin:

    "Ngày nay, chúng ta đang phải trải qua một cơn khủng hoảng văn hóa trong mức độ chưa từng có. Dĩ nhiên nền văn hóa hôm nay chứa đựng nhiều giá trị rất tích cực mà phần lớn là do sự Phúc âm hóa mang lại; nhưng đồng thời nó cũng đã gạt bỏ những giá trị tôn giáo nền tảng và thu nhập những quan điểm trái ngược với niềm xác tín Kitô giáo".[2]

    1.2. Thách đố muôn đời của văn hoá

    Con người là sinh vật có văn hoá. Khao khát vươn lên của con người cũng bộc lộ trong những hình thức văn hoá và tôn giáo khác nhau. Văn hóa không phải chỉ là lớp vỏ của tư tưởng bao bọc thực tại, nhưng là cách thức khám khá chính bản chất của thực tại. Con người là sinh vật cao cấp nhất của vũ trụ này; và đối với con người, cuộc sống không thể không có văn hoá. Những nỗ lực sống một cách “có văn hoá” đúng nghĩa cũng là nỗ lực khám phá chân lý của thực tại.

    Tuy nhiên, mọi bước tiến của tất cả các nền văn hoá đều mới chỉ là, và có lẽ vẫn luôn là bước dò dẫm đi tìm chân lý của thực tại. Bản chất của thực tại có thể được sáng ra, nhưng cũng có thể bị lệch lạc do chính những khẳng định thiên lệch của văn hóa. Mỗi nền văn hoá đều có nguy cơ không còn đi tìm chân lý đích thực, khi người ta biến một vài điều trở thành vĩ đại mà chối bỏ sự toàn vẹn của chân lý, chối bỏ thực tại trong tính toàn vẹn của chính nó. Đặc biệt là khi đặt mình trong thái độ đối phó, người ta sẽ luôn có khuynh hướng đề cao một vài giá trị nhân bản nào đó, đến độ chống đối hoặc loại trừ các giá trị khác. Chẳng hạn tình trạng đề cao thứ “chủ nghĩa anh hùng”. Thứ chủ nghĩa anh hùng ấy đánh mất những giá trị nhân bản chân chính, khiến con người tìm niềm vui và sự thành công trong giết chóc.... 

    Điều có thể thấy khá rõ là con người càng văn minh lại càng ít có khả năng nắm bắt cái toàn thể. Càng ngày giới trẻ lại càng biết quá nhiều nhưng lại vẫn cứ thiếu cái toàn thể. Giới trẻ ngày nay có thể có 10 triệu viên gạch tri thức, nhưng vẫn là một đống gạch ngoài sân; trong khi ngày xưa người ta có 1 triệu viên gạch tri thức thì đã có thể xây được một "căn nhà tinh thần" cho mình rồi... Tính cách phân mảnh của kiến thức trong thế giới hiện đại, rõ ràng hơn ở xã hội Việt Nam, và cụ thể nhất nơi giới trẻ Việt Nam, đã làm nên sự phân mảnh của nhân cách. Ở Việt Nam, phong cách, thời trang, trò vui giải trí, nghệ thuật, nghề nghiệp... đều mang dáng dấp những "phong trào", trôi dạt theo thị hiếu đoàn lũ... 

    Lịch sử nhân loại đã trải qua hằng ngàn năm, với biết bao nhiêu tâm hồn chân thật để tạo nên một bề dày lịch sử, không phải chỉ là thứ lịch sử của những sự kiện mà còn là lịch sử của cảm thức về chân thiện mỹ. Bề dày của cảm thức chân thiện mỹ ấy được ghi nhớ trong ngôn ngữ, trong văn hóa, nhất là trong văn hiến của một dân tộc và của cả nhân loại. Chẳng hạn, trong ngôn ngữ, người ta sẽ tìm thấy những cảm thức về chân lý rất đáng quí trọng khi tìm về ngữ căn (étymologie) của từng từ ngữ; hoặc trong văn hóa, người ta có thể tìm thấy những giá trị nhân văn ẩn sâu dưới những hình thức lễ hội, nguyên tắc giao tế, tổ chức cộng đồng hoặc gia đình...; trong những chuyện cổ tích mang dáng vẻ như huyền-hoặc, không-tưởng lại thường hàm chứa một nguồn mạch tinh thần căn bản (văn hiến) xuyên suốt của một dân tộc... 

    Một dân tộc không phải chỉ mạnh nhờ tiền bạc, nhờ vũ khí, nhưng còn nhờ bề dày văn hóa và chiều sâu văn hiến. Mỗi người được sinh ra và được lớn lên trong một gia đình với tổ tiên, ông bà, cha mẹ của mình, đồng thời cũng được sinh ra và lớn lên trong một cội nguồn sức sống mang tính tinh thần. Mỗi một con người không làm chủ những giá trị chân thiện mỹ, nhưng được nuôi dưỡng trong nguồn mạch ấy. Có một chiều sâu trong thực tại, trong lịch sử, trong văn hóa và văn hiến của dân tộc mình và của nhân loại nói chung, chiều sâu ấy mời gọi con người sống thái độ khiêm tốn, trân trọng và tri ân lẫn nhau. 

    Trong thế giới hôm nay, con người đối diện với quá nhiều thách thức. Cuộc sống của xã hội hiện đại giống như một cuộc đua gay gắt, cuộc đua sống-còn. Thế giới đã chuyển từ một xã hội an ổn ai cũng sống được, chuyển sang một xã hội muốn sống cần có ưu thế hơn người khác; rồi chuyển sang một xã hội cạnh tranh khốc liệt đến độ muốn sống thì phải cách này cách khác, "tiêu diệt" người khác... Tính cách gay gắt ấy thường đưa tới hệ quả là con người luôn phải đối phó, đối phó với những thách đố bên ngoài để sống còn, đối phó bằng việc phát triển thật nhiều kỹ năng mềm (chỉ để giải quyết tình huống). Mỗi cá nhân đối phó bằng cách khôn khéo để luồn lách, nhiều khi phải bợ đỡ để được thăng tiến hoặc ít là để được an ổn... Thái độ chỉ biết thích ứng, chỉ bận tâm đến thành quả cụ thể, có thể đưa tới những thành công gần, nhưng tiếp tục khoét rỗng nền tảng giá trị nhân bản và làm cho người ta xa rời niềm hạnh phúc đích thực. 

    Con người hiện đại thường không nắm bắt được "vóc dáng" của dòng chảy sinh mệnh ấy, nên thường quá vội vàng phê phán, hoặc phá bỏ truyền thống bao đời bằng cách so chiếu với vấn đề của một thời điểm của lịch sử; biến những nền tảng nhân bản của văn hóa thành chủ nghĩa anh hùng; đánh mất lương tri để chạy theo "hệ quả lịch sử"…

    Nguy cơ phá hỏng mạch ngầm chân thiện mỹ ấy chính là thái độ thực dụng, duy tiện lợi; thái độ liều lĩnh, hoặc thái độ "ngựa non háu đá": người ta dùng chữ giản thể thay vì phồn thể trong tiếng Trung; người ta dễ dàng phá bỏ những di tích lịch sử để xây những công trình hiện đại; người ta thay thế hình tượng những danh nhân mang dáng vóc văn hóa và văn hiến của dân tộc bằng những vị anh hùng của một ý thức hệ; người ta chính trị hóa mọi hành động của nhân tính; người trẻ đã phá hỏng cấu trúc ngữ nghĩa khi tạo từ cho vui tai (sát thủ đầu mưng mủ...). Những điều ấy là dấu hiệu đáng báo động về một sự khoét rỗng mạch ngầm chân thiện mỹ... 

    Một con người chân chính luôn phải biết sống tâm tình tri ân, sống thái độ "mắc nợ nghĩa tình" với lịch sử, với dân tộc và với nhân loại; tri ân vì mạch nguồn chân lý mà mình được thông dự. Đó là điều thiếu hụt của giới trẻ Việt Nam ngày nay.

    1.3. Dáng đi đích thực của nhân loại

    Dưới ánh sáng đức Tin, có lẽ chúng ta phải nhìn lại thời Trung Cổ Tây Phương để hiểu được hiện trạng thời hiện đại, ở Tây Phương và trên toàn thế giới. Khi thế giới Âu Châu Kitô giáo bước ra khỏi thời Trung Cổ, người ta đã phản ứng lại bầu khí, nói chung, có tính cách duy linh của Giáo hội và coi thời Trung cổ như thời kỳ chuyển tiếp, thời kỳ của bóng tối, của “Đêm trường Trung Cổ”. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực đánh giá lại thời kỳ này ngay từ thế kỷ XVIII, nhưng cho đến ngày nay, ấn tượng chung của thời Trung Cổ vẫn còn rất tiêu cực...

    Quả thật ta khó có thể biện minh được cho nhiều vết đen của thời kỳ này, chẳng hạn vụ án Galilée, Bruno… và sự hiện hữu của Toà án Dị giáo nói chung. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã từng xin lỗi thế giới vì những sự việc này. Nhưng nếu người ta cũng không nhận ra những đóng góp của thời Trung Cổ, và là những đóng góp quan trọng cho dòng lịch sử nhân loại, thì cũng thật là bất công cho một thời kỳ suýt soát mười thế kỷ ở Tây phương.

    Đóng góp lớn nhất của thời Trung Cổ Tây phương chính là cung cấp cho nhân loại “đôi cánh Đức tin và Lý trí”. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong thông điệp Đức tin và Lý trí cho thấy: “Đức tin và Lý trí là như đôi cánh giúp cho trí tuệ con người băng mình lên để chiêm niệm chân lý”[3] …. “Tuy nhiên từ sau thời Trung cổ, sự phân biệt chính đáng đã biến thành sự chia rẽ tai hại. Vì não trạng quá duy lý của một số nhà tư tưởng, những lập trường trở thành cấp tiến đến độ trong thực tế đã làm cho triết học ly tán và hoàn toàn độc lập với nội dung của đức tin”.[4]

    Qua những phân tích của Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, ta tạm phân biệt ba yếu tố trong đời sống con người: Đức Tin - lý trí triết học - lý trí khoa học:

    “Bây giờ có vắn gọn nhắc đến những hình thức của chân lý thiết tưởng cũng là điều hữu ích. Nhiều hơn cả là những chân lý dựa trên những hiển minh trực tiếp hay những chân lý được củng cố bởi kinh nghiệm. Đó là lãnh vực chân lý của đời sống thường nhật và của nghiên cứu khoa học. Một lãnh vực khác là những chân lý có tính cách triết lý, mà con người đạt được nhờ khả năng trừu xuất của trí tuệ. Sau hết là những chân lý tôn giáo, là những chân lý ăn rễ phần nào trong triết lý. Chúng hàm chứa trong các lời phúc đáp của các tôn giáo khác nhau cho những câu hỏi tối hậu, tùy theo truyền thống của các tôn giáo”.[5]

    Trong ba yếu tố ấy, ta tạm phân biệt chức năng riêng: đức Tin sẽ cho nắm bắt được cứu cánh của đời người; lý trí triết học cho ta biết ý nghĩa nhân bản của thực tại nói chung và lý trí khoa học cho ta làm chủ được thế giới.

    - Đức Tin cho ta kinh nghiệm “mừng”, tức là kinh nghiệm nếm được ý nghĩa chung cuộc của cuộc sống con người ngay trong những tình trạng còn dang dở hoặc bất toàn của cuộc sống hiện tại, và đó là kinh nghiệm hạnh phúc đích thực.

     - “Lý trí triết học” sẽ giúp ta vượt qua tính thực nghiệm của thế giới này, để đưa tất cả vào tầng ý nghĩa, khai mở những giá trị nhân bản đích thực trong cuộc sống con người. Lý trí triết học nhân hoá thế giới và mang lại cho con người kinh nghiệm về “niềm vui” chân chính.

    - Lý trí khoa học giúp con người thống trị thế giới, sử dụng thế giới để làm cho cuộc sống được thuận lợi, dễ dàng hơn. Lý trí khoa học làm cho con người được “sung sướng”. Tuy nhiên, một khi tách khỏi thứ lý trí triết học và đức tin, lý trí này sẽ rơi vào tình trạng gọi được là “lý trí công cụ”.

     “Một triết học không đặt vấn đề về ý nghĩa của cuộc đời sẽ mắc cái nguy cơ giản lược lý trí vào những chức năng dụng cụ thuần túy, không có tham vọng chính đáng nào để tìm kiếm chân lý.”[6]

    Thế nhưng, sau thời Trung Cổ, một phản ứng quá khích đã làm cho con người đánh mất Đức Tin (vào khoảng thế kỷ XVII- XVIII); rồi sau đó con người cũng đánh mất luôn cả lý trí triết học (vào khoảng thế kỷ XIX) để chỉ còn thấy lý trí khoa học. Vào đầu thế kỷ XX, trong khi mà triết học đã bắt đầu bớt lạc quan về khoa học, thì quần chúng vẫn mê đắm vào khoa học và chỉ biết dùng lý trí như một phương tiện thuần tuý, được sử dụng vào mục đích tạo ra những đồ vật tiện dụng và dễ dàng cho cuộc sống. Lý trí ấy không còn là chính sự sống của con người với khả năng tìm ý nghĩa cho mình, để con người có thể sống phẩm giá đích thực của đời người; và lý trí ấy khó lòng khai mở đời sống con người hướng tới cứu cánh. Đó chỉ là “lý trí công cụ”.

    Khi ai đó chỉ có thứ lý trí công cụ, kẻ đó cũng sẽ bị lôi kéo vào thế giới sự vật, sống với những tính toán thuần tuý để con người được sung sướng; và kẻ ấy dễ dàng bị sỏ mũi, bị sỏ mũi do chính sản phẩn mình làm ra, bị sỏ mũi do những kẻ lợi dụng thế lực chính trị, triết học, kinh tế… để điều khiển mình như một công cụ thuần tuý.

    Thế giới hiện đại đã đánh mất “đôi cánh” căn bản của vận mạng con người. Không còn đức Tin nên không gắn được với cứu cánh; quá đề cao lý trí khoa học mà giảm nhẹ lý trí triết học, nên người ta không còn mấy bận tâm về ý nghĩa nhân văn của đời sống con người... Và ở cực bên kia, ta cũng có thể thấy thế giới có những tôn giáo đã sống một thứ đức Tin không tương tác với lý trí, nên dễ rơi vào cuồng tín...

    Có phải chính sự mất cân bằng trong “dáng đi” căn bản như thế mà con người của thời hiện đại đã rơi vào biết bao khủng khoảng, khủng hoảng môi sinh và khủng hoảng xã hội như Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nói trong thông điệp Laudato si' ? Nói cho cùng, chúng ta cũng có thể gọi được đó là sự khủng hoảng đức Tin. Không phải vì những người ngoài Kitô giáo thiếu đức Tin mà nguyên nhân chính là những người Kitô hữu không sống một đức Tin chân thật và phong phú để trở nên như lời chứng cho thế giới hôm nay.

    Bầu không khí thời đại ấy là nét chung của cả nhân loại, nhưng lại tác động một cách mạnh mẽ, rõ ràng hơn hết nơi giới trẻ, đặc biệt giới trẻ ở những nơi yếu kém về triết học và đức Tin.

    2. Cấu trúc và dáng dấp xã hội thay đổi

    2.1. Văn hoá nhanh – xã hội mất căn tính

    2.1.1. Văn hoá nhanh lan rộng khắp nơi

    Thế giới hiện đại đang diễn ra như một cuộc chạy đua. Người ta đã từng nói sự tiến bộ của một năm trong thế kỷ XX bằng mười năm trong những thế kỷ trước. Đến thế kỷ XXI của chúng ta, sự tiến bộ lại càng nhanh hơn và nhanh hơn nữa…

    Hiện nay, thứ văn hoá nhanh ấy đã thấm nhập vào hầu hết các quốc gia trên thế giới và đến mọi giai tầng xã hội. Văn hoá nhanh làm biến đổi mọi sinh hoạt xã hội bên ngoài cũng như chi phối sâu xa đến tâm thức bên trong của con người.

    Văn hoá nhanh thúc bách con người phải chạy và không ai có thể dừng lại hoặc phản kháng mà không bị bầm dập te tua. Người ta luôn phải thăng tiến và luôn phải bảo vệ vị thế của mình; người ta chẳng thể yên ổn với cuộc sống hiện tại vì bao mối đe doạ hiển hiện trên từng lãnh vực: không tiến tức là lùi, không tiến bộ sẽ bị kẻ khác qua mặt và loại bỏ, không tiến bộ sẽ có nguy cơ mất hết cả những gì mình đã đạt được…. Trẻ con cũng chạy đua, người lớn cũng chạy đua, người người cùng chạy đua… Ngày nay, không còn chuyện “con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa”. Người ta có nhiều cơ hội để đổi đời, nhưng khát vọng đổi đời cũng xô đẩy biết bao người vào vòng xoáy nghiệt ngã. Cuộc chạy đua thăng tiến ấy ra như không bao giờ đủ và vì thế, lòng người cũng chẳng thể yên… Con người ngày nay luôn sống trong tâm trạng “bài toán cuộc đời chưa có đáp số”.

    Với những biến động như thế, trong tâm thức con người hiện đại, khuynh hướng thích nghi trở thành một yêu cầu bức thiết; người ta cần phải thích nghi và không ngừng thích nghi, thích nghi đến độ dễ dàng bỏ quên nhiều giá trị tinh thần căn bản và thân thương trong tâm hồn. Nhu cầu thích ứng bên ngoài trở nên quan trọng hơn là nhu cầu sống an hòa với chính mình ở bên trong và trung tín với truyền thống. Thích ứng nghĩa là giải quyết vấn đề trước mắt, là đối phó “theo thời vụ” chứ không phải là tìm giải quyết tận căn bản của vấn đề.

    Cuộc sống “chạy” quá nhanh, nên người ta không còn cảm nhận được chính niềm vui của cuộc sống. Cuộc sống “chạy” quá nhanh nên người ta không còn đọng lại một giá trị nhân bản, hoặc một ý nghĩa thân thương, hay một một giá trị “thiêng liêng” nào cho tâm hồn mình.

    Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói: “Quả thực, người ta không thể chối được là, thời kỳ của thay đổi mau lẹ và phức tạp này đã làm cho những thế hệ trẻ phải cảm thấy mất những điểm tựa chính thức.[7]

    2.1.2. Xã hội mất căn tính

    Thế giới biến chuyển quá mau, điều đó liên quan mật thiết tới nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường trong những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI đã chạy đua để tạo ra nhiều sản phẩm mới, kéo theo những chiến dịch quảng cáo rầm rộ, và làm cho con người không thể “an cư”, không thể yên ổn trong nếp sống cũ, không thể bằng lòng với những sản phẩm cũ… Điều đó dần dần đưa đến một hậu quả nguy hại: xã hội mất căn tính.

    Trước đây, một cách phổ biến, người thợ vốn có lương tâm nghề nghiệp, anh ta xác tín và tự hào về tay nghề của mình. Dĩ nhiên, người thợ cũng lo kiếm tiền để sinh sống, nhưng người thợ kiếm tiền bằng cách thực hiện tay nghề của mình một cách liêm chính; và khi làm ra sản phẩm, anh ta cũng tìm được một sự xác định về bản thân mình trong xã hội. Nói cách khác, người thợ trước đây đã “làm người” trong khi “làm việc”. Niềm tự hào về bản thân mình như một người thợ khiến cho anh khó có thể làm ra những sản phẩm dối trá, hoặc sản phẩm tồi tệ…

    Khi nền kinh tế thị trường trở nên sầm uất, có quá nhiều thứ sản phẩm mới lạ và tràn lan. Phương tiện quảng cáo làm cho người ta người ta không thể không mua sắm, và tưởng như những điều mình sắm được sẽ mang lại những ý nghĩa quyết định cho cuộc đời. Dần dần người ta chỉ tìm thấy ý nghĩa cuộc đời mình trong việc so sánh cái có của mình với cái có của người khác, dù là có bằng cách nào. Nói như Gabriel Marcel, người ta không còn sống với phạm trù “là”, nhưng là sống với phạm trù “có”. Trong nền kinh tế thị trường ồn ào hiện nay, con người tìm khẳng định mình qua những gì mình có chứ không phải qua việc thực hiện bản thân mình trong chính nghề nghiệp của mình; và người ta chỉ tìm thấy niềm vui và tự hào về cái mình có chứ không phải niềm vui và tự hào về cái mình là… Đó là tình trạng xã hội mất căn tính, đưa tới những hệ quả tai hại và nguy hiểm cho phẩm tính cuộc sống con người. Cái “có” là cái ở bên ngoài mình, nó có thể mất đi hay bị người khác chiếm đoạt… Khi cái có mất đi, người xưa vẫn còn có thể “đứng” trên cái là của mình; con người ngày nay thì lại dễ dàng rơi vào khủng hoảng, thậm chí tự tử vì không còn thấy được “lý do hiện hữu” trên cái mình là.

    2.2. Đảo ngược nếp sống “an cư - lạc nghiệp”

    Có một thực tế của cuộc sống hiện đại đã chi phối đời sống gia đình rất nhiều, đó là nếp sống của đời sống gia đình bị phá vỡ do nhu cầu của công việc. Điều tưởng như hiển nhiên với những thế hệ trước là “an cư - lạc nghiệp”, nay đã và đang dần dần bị đảo ngược thành “lạc nghiệp - an cư”. Đây là một sự đảo ngược không chỉ theo nghĩa không gian, hoặc theo nghĩa thời gian, và sâu xa hơn là một sự đảo ngược của toàn bộ giá trị căn bản của cuộc sống.

    “An cư” được hiểu trước tiên như có một ngôi nhà vật chất để ở; nhưng cũng có thể được hiểu như một bầu khí gia đình để “trở về”, như một sự ổn định trong tâm hồn để có thể chống lại áp lực của cuộc sống bên ngoài, như một hiện hữu căn bản làm nên ý nghĩa nền tảng của một cuộc đời để có thể hóa giải những biến động lẻ tẻ hằng ngày của cuộc sống. Ở nhà là nơi ta có thể làm những chuyện “vô ích”, nghĩa là những chuyện không nhằm đổi chác mua bán với ai, không để đạt được những đánh giá tốt của ai khác, của xã hội hay của các phong trào, mà chỉ để là mình… Ở nhà nghĩa là “sống”, là “vui chơi”, chứ không phải như phương tiện để làm một cái gì khác. Điều đó cần thiết để con người “biết” được mình, biết và sống nhu cầu sâu xa và chân thật của chính mình. Điều đó cần thiết để con người khám phá lại nhu cầu “sống với” ai khác, nhu cầu được gặp gỡ và được đón nhận một cách căn bản, tức là đón nhận và được đón nhận chính bản thân.

    “Lạc nghiệp” được hiểu trước tiên là một công ăn việc làm ổn định; nhưng cũng có thể được hiểu là những thúc bách của cuộc sống xã hội, như trách nhiệm mà mỗi người phải đảm nhận với xã hội, với tập thể,...

    Khi nguyên tắc “an cư - lạc nghiệp” được thực hiện, đời sống con người được ổn định, trước tiên, từ ngôi nhà ở, từ đời sống gia đình, từ nền tảng ý nghĩa chính yếu của một đời người.... Trên nền tảng ấy, tâm hồn con người mới có thêm sức mạnh và công ăn việc làm mới có thể xuôi xắn, trách nhiệm với đời sống xã hội được chu toàn....

    Ngược lại, bầu khí chung trên toàn thế giới hiện nay đang xoay chiều, nguyên tắc “lạc nghiệp - an cư” đang càng ngày càng trở nên đường lối thắng thế. Thực trạng di dân càng ngày càng trở nên phổ biến; vì nhu cầu cuộc sống xã hội những dịp hội họp có tính chất tình nghĩa càng ngày càng khó thực hiện, những buổi xum họp gia đình càng ngày càng ít đi; những tâm tình, cảm nghĩ riêng tư của mỗi người càng ngày càng không có cơ hội được bộc lộ và được cảm thông... Điều quan trọng hơn cả là có một sự đảo ngược giá trị, vì càng ngày người ta càng chuẩn hóa tương quan tình nghĩa gia đình theo một sự hợp lý có tính xã hội. Nguyên lý trao đổi lấn lướt nguyên lý trao tặng. “Xã hội lý” càng ngày càng đè bẹp “xã hội tình”.

    Trong sâu xa của tâm hồn, con người hiện nay cần đến một “hậu phương”, cần đến một chỗ “ở nhà”, cần một mái ấm cho tâm hồn được nghỉ ngơi thực sự. Henri Nouwen[8] cho thấy, trong tương lai, từ ngữ “ở nhà” có một tầm quan trọng lớn trong đời sống của con người. “Ở nhà” nghĩa là sống trong một sự an hòa từ trong tâm, nghĩa là sống một sự hiệp thông trong chiều sâu ở mức độ bản thân. Ở nhà là nơi ta thoát khỏi tính phòng vệ, được giải phóng khỏi mọi lo lắng, thoát được mọi áp lực như một điều kiện để được chấp nhận… Ở nhà là nơi “chúng ta có thể khóc cười, ôm nhau và nhảy, thanh thản mơ mộng hay ngủ say sưa, nơi chúng ta ăn, chơi đọc sách, ngồi bên lò sưởi, nghe nhac, tiếp đón bạn bè. Nhà mình, nơi chúng ta có thể nghỉ ngơi và chữa lành. Nhà mình nơi làm sống lên bao nhiêu tình cảm và xúc cảm, xây trên một hình ảnh duy nhất, đó là căn nhà vui sống; căn nhà của tình yêu.[9]

    Ở nhà là nơi mà ta được nâng đỡ “ở bên dưới”, được đón nhận bản thân một cách căn bản, chứ không phải bị xách đầu từ bên trên để rồi tay chân phải quờ quạng để bơi theo… Đỡ nâng “ở bên dưới” nghĩa là một sự chấp nhận toàn vẹn để người khác có thể thực sự là chính họ, là sự hỗ trợ để phát triển bản thân, một sự phát triển gắn liền với gốc rễ của bản thân, chứ không phải một sự uốn nắn từ bên ngoài, làm cho sự phát triển bị lệnh lạc.

    Xã hội hiện nay luôn thúc người ta đặt câu hỏi “để làm gì?”, “được cái gì?”… Đó là thế giới “duy hiệu năng”, bị thúc đẩy do mối lo tìm được một thành quả. Đó là thế giới đánh mất cái “ở với”.

    Ta có thể thấy khá rõ lối sống của con người ngày nay là lối sống của một “người đi đường” chứ không phải là lối sống của một “người ở nhà”. Người ta giải quyết tạm thời những trục trặc để đi qua chứ không phải là một sự sửa đổi cẩn trọng và kỹ lưỡng của bản thân mình.

    2.3. Hụt hẫng trong thế giới tương đối

    Mặc dù mọi sự của con người đều tương đối, chính sự hiện hữu, thân xác, linh hồn, tương quan, tài năng… đều tương đối, nhưng con người lại có một ý muốn luôn đòi hỏi tuyệt đối. Ý muốn tuyệt đối của con người là một động lực thúc bách con người luôn muốn vươn lên, luôn vượt quá chính mình, và không bao giờ thoả mãn được điều gì chỉ ở mức độ tương đối.

    Khát vọng tuyệt đối là nhu cầu chân thật hay chỉ là một ảo tưởng?

    Thật ra, kinh nghiệm bình thường vẫn cho thấy con người, càng trưởng thành, càng cần phải thống nhất đời mình. Con người trưởng thành không thể buông xuôi đời mình, mặc chăng hay chớ, bèo dạt mây trôi…; và trọng tâm làm nên sự thống nhất ấy chính là một ý nghĩa căn bản. Ý nghĩa ấy, hoặc phổ biến nhất là làm cha/làm mẹ, hoặc một cách khác như dấn thân cho một lý tưởng tốt đẹp nào đó. Trên hành trình ấy, mỗi người đều có thể nhận ra, ở một thời điểm nào đó, mình được thoả lòng khi chuyển trọng tâm ý nghĩa đời mình “ra khỏi bản thân”, tìm thấy niềm vui khi sống vì ai khác, xác tín chọn lựa hy sinh cả mạng sống của mình vì ai khác…

    Một cách cụ thể, ta có thể thấy đời người có hai giai đoạn: làm hoa và làm hạt. Đúng hơn, đó là hai chiều hướng, hàm chứa lẫn nhau trong vận hành phát triển chân thực: đón nhận và cho đi. Hai chiều hướng ấy cho thấy sự phát triển chân thực của một mầm sống luôn nằm trong vận hành của sự sống bao quát hơn. Đời sống mỗi người chỉ chân thực khi được đặt trong dòng chảy của sự sống gia đình, nhân loại và siêu việt… Không thể làm hoa nếu không đón nhận từ ai khác và đón nhận thì cũng không thể không trao tặng cho ai khác. Con người ước mong phát triển bản thân mình…đến mức độ hoàn hảo. Nhưng người ta không bao giờ đạt đến mức độ tự thân hoàn hảo, mà chỉ có thể làm cho cuộc sống ấy có giá trị hoàn hảo khi dám dâng trọn bản thân và cuộc đời mình cho ai khác. 

    Yếu tố làm hoa thường là những yếu tố của “lượng tính”, nghĩa là có thể đo đếm được. Yếu tố làm hạt thường mang tính chất của “phẩm tính”, không đo đếm được. Nói cách khác, “sự sống” là làm hoa, “ý nghĩa sự sống” là làm hạt. “Bản năng sinh tồn” của con vật là “làm bất cứ cách nào để sống”, nhưng “bản năng sinh tồn” của con người lại phức tạp hơn nhiều, đó là khát vọng “làm bất cứ cách nào để sống có ý nghĩa”. Do đó, đối với con người, khi cuộc sống không có ý nghĩa, có thể người ta muốn chết đi. Ngược lại, người ta có thể tự nguyện chết đi để thực hiện được ý nghĩa sự sống của mình. Chính yếu tố làm hạt, yếu tố “ý nghĩa của sự sống” cho thấy nét “khác thường” của sự con người, và yếu tố ấy đã hàm chứa tính chất siêu việt trong cái đời thường, hàm chứa tính tuyệt đối trong một sự vây bọc của mọi sự tương đối.

    Con người vốn tương đối, nhưng lại mang khát vọng tuyệt đối. Khát vọng tuyệt đối ấy khiến con người luôn vươn lên mãi… đến độ dám hy sinh chính sự sống của mình để mong đạt được tuyệt đối ấy. Ngược lại, khi không có một đầu mối tuyệt đối, khi không có được một hạt nhân ý nghĩa làm nên nét toàn thể, nét duyên, làm nên dáng dấp, làm nên cái thần trong một nhân cách, thì đời sống ấy sẽ chỉ là một “tổng số” những sự kiện tạp nham, biến cố rời rạc... Nhiều người ngày nay, nhất là giới trẻ, không có một lý tưởng chân thực để cống hiến, đã không còn biết cách nào giải quyết đời mình khác hơn là vui hưởng những thành quả trước mắt; tất cả ý nghĩa của thành công, của con người thành đạt bị giản lược vào những điều tương đối và phù du. Đó là mối nguy cơ lớn của con người hiện nay, đặc biệt là nơi giới trẻ. Đức Gioan Phaolô II đã phải thốt lên: “…Cái đa dạng chính đáng của những lập trường đã nhường bước cho thuyết đa nguyên ba phải (pluralisme indifférencié), căn cứ trên khẳng định là mọi lập trường đều có giá trị.”[10]

    Điều đáng buồn, theo như nhận định của Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI, sau khi những thiên đường tại thế sụp đổ, người ta vẫn chưa quay về với cánh chung Kitô giáo.

    2.4. Phẩm giá lung lay

    2.4.1. Phẩm giá người

    Nhân loại đã phải trải qua một lịch sử dài và phải trả giá đắt để có thể nhận ra được “khuôn mặt” của phẩm giá người trong mỗi con người, ngay cả nơi những người bé mọn nhất. Chẳng hạn, từ khi có con người, thì người ta đã có nghi thức chôn táng, vì xác con người không phải là xác con vật… Ở Tây phương, người Hy Lạp chưa làm sáng lên được ý nghĩa của phẩm giá, và người ta chỉ thấy một chi tiết nhỏ trong tác phẩm Antigone của thi sĩ Sophocle (497-405). Người La Mã đã tiến triển hơn nhiều khi có nhiều nỗ lực đề cao sự bình đẳng của mọi người trước luật pháp. Chẳng hạn Ciceron (106-43 tcn), trong cuốn Le Loi, I,10 nói rằng có một sự bình đẳng tự nhiên giữa mọi người, vì mọi người đều có chung lý trí. Triết gia Sénèque (khoảng tk I, cn) cho rằng chế độ nô lệ không có nền tảng tự nhiên mà chỉ là công ước xã hội. Nô lệ chỉ là một sự làm thuê suốt đời.[11]

    Truyền thống Do Thái khẳng định con người là hình ảnh Thiên Chúa[12] và đó chính là nền tảng của phẩm giá con người.[13] Đức Giêsu cho thấy phẩm giá là-người của những kẻ bé mọn và khẳng định nền tảng của sự bình đẳng ấy bắt nguồn và được chuẩn nhận nơi chính Thiên Chúa. Sự quan tâm của Thiên Chúa đến cá nhân con người được khẳng định trong việc trao ban cho mỗi người có một thiên thần bản mệnh.

    "Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 18,10).

    Thế kỷ XVI, ta thấy những đóng góp của nhà thần học Francisco de Vitoria OP (khoảng 1483) về quyền tự nhiên của con người, hoặc Giám mục Las Casas (1474-1566) tích cực đấu tranh giải phóng nô lệ. Thời cận-hiện-đại, thế giới Tây phương đã hình thành nên được một số bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền: Tuyên Ngôn Nhân Quyền 1689 của Quốc Hội Anh; Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ (1776); và đặc biệt là bản Tuyên ngôn của Cách Mạng Pháp 1789. Sang thế kỷ XX, chúng ta có bản Tuyên Ngôn nhân quyền của Liên Hiệp Quốc 1948, trong đó, điều Một của văn kiện ấy viết: “Mọi người đều sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm giá và quyền lợi. Con người có lý trí và lương tâm, và phải đối xử với nhau trong tinh thần huynh đệ”.[14]

    Hơn nữa, không phải chỉ có Tây Phương mới có những giá trị căn bản về phẩm giá người. Người ta cũng tìm thấy ở Ấn Độ và Trung Hoa có những con người và thời đại đề cao phẩm giá người, bởi vì đó là khát vọng chung của nhân loại. Chẳng hạn học thuyết của Khổng Tử với việc khám phá ra “chữ Nhân”… 

    Một điều cần ghi nhận là người ta chỉ khám phá ra ý niệm phẩm giá con người (la dignitée de l’homme, l’humanité) khi có những con người bị chà đạp. Chính sự hiện diện của người nghèo, hoặc nỗi đau thương của con người đã làm bật ra ý nghĩa cao quý, giá trị căn bản của một con người. Khi con người bị “lột trần”, khi bản thân một con người không còn được bảo vệ, trang trí, tô vẽ bằng tiền của hay địa vị, thì con người ấy lại có thể biểu lộ được rõ nét điều căn bản nhất, đòi hỏi người khác phải tôn trọng, đó là phẩm giá một con người. Ở đây, xuất hiện ra một tâm tình tôn trọng căn bản. Tôn trọng là yếu tố căn bản để thiết lập tha nhân như là những “đối tác” bình đẳng; và sự tôn trọng tha nhân như là người, chứ không phải như là một nhân vật, điều đó có khả năng biểu lộ ý nghĩa của phẩm giá con người.

    2.4.2. Phẩm giá và chức năng

    Nữ triết gia Hannah Arendt (1906-1975) nhận định về tội ác chống lại nhân loại của tên đồ tể Phát-xít Đức, Eichmann là “sự tầm thường của cái ác”.[15] Tuy nhiên, có lẽ còn có một thứ bình thường hơn nhiều, bình thường và phổ biến đến độ đa số nhân loại vẫn chủ trương và thi hành nhưng lại là điều luôn có nguy cơ chống lại phẩm giá con người, đó là “chức năng”.

    - Sự lầm lộn giữa phẩm giá và chức năng có thể, hoặc đưa tới lập trường “cào bằng” tất cả; hoặc khiến người ta có quyền khinh dể những người không có khả năng, không có địa vị, và nhất là những người không có tư cách…

    - Sự nhập nhằng giữa phẩm giá và chức năng khiến cho người ta “tôn trọng” phẩm giá chỉ như cái tối thiểu, nghĩa là “tôn trọng” và mặc kệ cõi riêng tư của ai đó… Nếu phẩm giá người chỉ được nhìn trong cái tối thiểu, thì cá nhân cũng chỉ “được tôn trọng” trong mức độ tối thiểu. Khi ấy, “đời sống riêng tư” có thể là “được tôn trọng” hoặc là “bị tôn trọng”, nghĩa là để cho mỗi người có quyền sống và quyền chết, có quyền phát triển và quyền tự hủy hoại đời sống của mình… miễn là không vi phạm đến ai khác, không đụng chạm đến công ích. Đây chính là bầu khí của những nước tây phương.

    - Sự lệch lạc trong nguồn gốc của phẩm giá và chức năng khi người ta đặt nền tảng của phẩm giá nơi quyền ban phát và thu hồi của nhà nước hay tập thể, khiến cho có những người nhân danh một thứ lợi ích chung nào, một trật tự chung nào đó, để loại trừ hay chà đạp những người không cùng chí hướng với mình…

    Để đi đến khẳng định phẩm giá bình đẳng của mọi người, thì người ta phải loại bỏ chế độ nô lệ, loại bỏ mọi thứ giai cấp xã hội, mọi sự phân biệt chủng tộc, mầu da, phái tính, tín ngưỡng… Thế nhưng, trong thực tế, con người lại không loại bỏ được tính ích kỷ, tính ganh tỵ hơn thua. Con người có nhu cầu khẳng định chính mình như một nhu cầu chân chính để có thể làm-người; nhưng chính nhu cầu khẳng định mình sẽ lại là “đầu mối tội” để con người tái lập lại những thứ giai cấp mới, những thứ phân biệt mới, tái lập lại những thứ bất bình đẳng khác, theo địa vị xã hội, tài năng, tiền bạc, thậm chí cả trong đức độ. Làm sao có được một cảm quan chân thực về sự bình đẳng về phẩm giá giữa giám đốc và nhân viên, giữa thầy giáo và người lao công trong trường, giữa bác sĩ và những y công, giữa quan chức với những người dân nghèo khổ…?

    Thật ra, phẩm giá không phải là “cái tối thiểu” nhưng là “cái tối đa”, phẩm giá không phải là một “thành phần” nhưng là nền tảng làm nên tính toàn thể của một con người. Việc tôn trọng phẩm giá phải gắn liền với trách nhiệm luân lý về sự phát triển và thành toàn một con người. Con người có phẩm giá, đó là nền tảng để xây lên tất cả khát vọng trên hành trình làm người. Phẩm giá và chức năng cần phải được phân biệt nhưng lại không thể bị tách biệt. Nói một cách nào đó, con người có “phẩm giá là người” và “phẩm giá làm người”. Nơi con người, bản thân (là-người) và cuộc đời (làm-người) luôn là “tuy hai mà một”. Tất cả mọi sự, mọi thành công và phát triển của một con người chính là diễn tả, thể hiện phẩm giá con người. Cũng như bản chất con người cần được thể hiện một cách chính thực trong cuộc sống hiện sinh, để hoàn thành vận mạng cao quí của mình, thì tất những gì con người sống và hoạt động cũng đều là sự triển khai của phẩm giá cao quý của con người.

    Để đạt được điều đó, phẩm giá con người phải được đặt trong một mối liên luỵ và sự hiệp thông sâu xa cộng đồng nhân loại. Thực sự một phẩm giá của con người toàn vẹn như thế chỉ có thể có được khi người ta trở thành anh chị em của một Cha trên trời.

    Chúng ta có thể thấy khá rõ ràng tình trạng tách biệt phẩm giá và chức năng trong một thế giới cạnh tranh cao độ trong xã hội hôm nay; hoặc tình trạng ăn gian khi người ta lấy chức năng để “đôn lên” phẩm giá của mình.

    2.4.3. Phẩm tính và hiệu năng

    Lưu Á Châu, vị tướng Trung Quốc, nhận xét rằng: “Văn minh châu Âu và văn minh Trung Quốc gần như cất bước cùng nhau, nhưng châu Âu hình thành nhiều quốc gia nhỏ, trong khi Trung Quốc hình thành một đại đế quốc thống nhất…”. Nhưng “Châu Âu hình thành nhiều quốc gia chính là một cách thể hiện lục địa này có tự do tư tưởng. Mặc dù bọn họ chia thành nhiều nước nhỏ, nhưng, ít nhiều những gì có liên quan tới văn minh nhân loại đã được sinh ra từ chính những quốc gia tách rời này”… Trong khi đó “Thống nhất giang sơn chắc chắn có liên hệ tất yếu với thống nhất tư tưởng…”. Ông cho rằng văn minh Trung Hoa chỉ sản xuất ra các “chiến lược gia”, trong khi văn minh Châu Âu hình thành nên những “tư tưởng gia” có khả năng cung cấp những yếu tố quan trọng cho nền văn minh nhân loại.[16]

    Từ nhận xét ấy, chúng ta có thể hiểu hơn loại truyện kiếm hiệp Trung Hoa, trong đó mọi bang phái và nhiều cá nhân đều có khát vọng “bá chủ võ lâm, thống nhất giang hồ”; ta hiểu hơn một nguyên lý hành động phổ biến của các nhân vật Trung Hoa “vô độc bất trượng phu” (hiểu là nếu không độc ác thì không thể làm được chuyện lớn), và ta cũng hiểu một nhận xét khác: đối với người Trung Hoa, hệ quả lịch sử quan trọng hơn phẩm tính… nghĩa là mục đích biện minh cho phương tiện… chính đó là nét khác biệt đặc trưng giữa nhà tư tưởng nhân bản đích thực với các chiến lược gia.

    Con người luôn phải sống trong sự giằng co căng thẳng có tầm quan trọng mang tính quyết định giữa phẩm tính và hệ quả lịch sử. Hệ quả lịch sử là điều dường như có thể tính toán được bằng sự khôn ngoan của con người. Hơn nữa, hệ quả lịch sử, cũng như những thành quả theo sau đó, dường như có thể mang lại nhiều điều “tốt đẹp” hiển hiện rõ ràng. Trong khi đó, phẩm tính thì lại là một giá trị tinh thần, có vẻ bàng bạc, có vẻ phù phiếm, có vẻ vô ích...

    Mặt khác, nếu con người chỉ có thứ “lý trí khoa học”, trong một thế giới con người càng ngày càng diễn tiến quá mau, khi xã hội con người càng ngày càng trở nên như một cuộc chiến gay gắt, đến độ mỗi lựa chọn đều có thể trở thành ngã rẽ quyết định, thì quả thật việc ngả theo hướng hệ quả lịch sử chắc chắn sẽ lấn át sự tôn trọng mỗi con người trong phẩm tính làm người. Như thế, nếu phẩm tính của một hành vi không có một nền tảng siêu hình vững chắc, ăn sâu trong văn hoá, và hơn nữa, được bảo đảm trong một niềm tin tôn giáo, thì sự lấn lướt của hệ quả lịch sử là điều gần như đương nhiên.

    2.5. Văn hoá loại trừ

    Có lẽ căn bệnh muôn thuở và lớn nhất của nhân loại, cũng như của Giáo hội và Giáo hội Việt Nam, chính là chủ nghĩa ưu tuyển; và căn bệnh đó tìm thấy nơi thế giới hiện nay một môi trường thích hợp để bùng phát.

    Khi mà con người muốn xác định bản chất của mình là “sinh vật có ngôn ngữ” và “sinh vật chính trị”, bao hàm ý nghĩa con người là động vật biết dùng lời nói để giải quyết vấn đề sống chung với nhau, thì thật ra đó cũng chỉ là một sự khác biệt trong phương thức chứ không thay đổi được bản chất. Dù văn minh đến đâu, con người vẫn sống với nhau bằng thái độ so sánh và cạnh tranh. Đây không phải là vấn đề ở tầng xã hội hoặc tầng tâm lý mà người ta có thể tìm cách sửa đổi bằng việc đưa ra một thể chế không còn có giai cấp nữa…, nhưng là căn bệnh trầm kha trong chính bản chất người. Đây là vấn đề “siêu hình” của phận người chứ không phải vấn đề do biện chứng của hoàn cảnh.

    Xã hội con người, qua dòng lịch sử, hình như vẫn chưa bao giờ thoát được căn bệnh “chủ nghĩa ưu tuyển” (có lẽ trừ ra bầu khí gia đình chân chính), và tất nhiên căn bệnh đó cũng gây ra biết bao nhiêu hệ quả bất công. Do đó, dù với biết bao nỗ lực, thế giới con người vẫn là một biển bất công, biển bất công mênh mông và bao trùm mà những nỗ lực tìm công bằng kiểu con người chỉ là một chút “sóng bạc đầu” chảy trào và tan biến mau chóng. Ai dám vỗ ngực cho rằng mình không bất công với ai khi mà nhìn lại bản thân mình đã được lãnh nhận từ cha mẹ, khi mà nhìn lại văn hoá mình có được đã do công sức và máu của tổ tiên, khi mà nhìn lại mảnh đất mình đang ở đã được đổi chủ qua bao thế hệ, khi nhìn lại vị thế xã hội mình đang có nhờ vào lịch sử của bao thể chế, những thể chế không thể không có bất công…

    Chính vì thế, cội nguồn của bất công không phải chỉ ở trong tương quan sản xuất như Mác đã khám phá, nhưng nằm trong “bản chất người”, từ xa xưa cho đến hiện nay; không phải chỉ ở trong “cấu trúc” tương quan sản xuất, mà chính yếu nằm ở “dáng dấp” của tương quan con người với nhau.

    Quả thật, không một ai có thể tự mình vươn lên mà không dựa vào những “nấc thang” do người khác đã xây dựng. Như thế, bản chất cuộc sống con người chỉ có thể, hoặc lấy ý nghĩa cạnh tranh để tìm cách hợp thức hoá bất công, hoặc biến đổi ý nghĩa của bất công bằng thái độ chấp nhận mọi người đều mắc nợ nghĩa tình với nhau, và “kẻ được” luôn phải có trách nhiệm luân lý với “người bị”.

    Ta có thể tạm dùng hình ảnh “phòng khám” và “phòng thi” để mô tả cấu trúc của xã hội. Trong một nền văn hoá của tình nghĩa, của sự tương trợ, của yêu thương, người ta hình thành “phòng thi” cạnh “phòng khám” để đào tạo người có khả năng phục vụ cho “phòng khám”. Trong nền văn hoá cạnh tranh hiện nay, người ta biến toàn thể xã hội là “phòng thi”, và ai bị loại trừ khỏi phòng thi sẽ bị vứt vào sọt rác là “phòng khám”.

    Nếu phòng thi là nơi cần thiết cho sự phát triển xã hội, thì phòng khám lại là nơi cần thiết để con người được là người chân thật. Con người vốn là sinh vật có bệnh và người sống thật nhất là người dám sống với khuyết điểm của mình. Tự đáy tâm hồn, con người khát khao được sống trong phòng khám; nhưng bài toán xã hội lại bắt con người luôn phải bước vào phòng thi.

    Đức Giêsu tuyên bố: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn." (Lc 5,31-32). Sứ mệnh chính yếu của đức Giêsu là thực hiện điều đã được tiên báo trong sách ngôn sứ Isaia: "Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta" (Mt 8,17).

    Ở cùng đáy cuộc đời, con người bỗng bừng tỉnh khỏi “cơn say thăng tiến” để tìm về khát vọng yêu thương, khát vọng được chấp nhận như một ơn huệ tặng-không.

    3. Hệ quả trong tâm thức con người

    3.1. Thiếu hụt đời sống nội tâm

    Nhìn những người trẻ lớn lên trong bầu không khí xã hội chủ nghĩa, chúng ta có thể thấy khá rõ một sự thiếu hụt sự sống nội tâm. Các bạn trẻ bận tâm về những chuyện bên ngoài hơn thế giới bên trong; tìm giải quyết vụ việc của thế giới bên ngoài hơn là khám phá ý nghĩa của chính sự việc để chọn giá trị sống cho chính mình; vui vì những thành quả bên ngoài và ít để ý đến tiếng nói của lương tâm; tìm mọi cách để đạt được điều mình muốn một cách khá lì lợm mà ít thấy “xấu hổ”. Thiếu đời sống nội tâm, người trẻ ít tự trọng, ít bị dằn vặt lương tâm; các bạn giải quyết một sự việc theo bài toán của lượng tính chứ không phải từ cảm nhận chân thật của lương tri ngay thẳng về phẩm tính... Nói chung, so với những người lớn lên trong một bầu không khí khác, ta có thể thấy các bạn trẻ Việt Nam hiện nay thiếu “tính chủ thể”, ít có khả năng đặt lại vấn đề từ cội nguồn chân lý, dễ sa vào thái độ đoàn lũ, tìm sự ganh đua trên bề mặt sự kiện hơn là lặn xuống tầng ý nghĩa nhân sinh.

    Đối với Kitô giáo, “thế giới tinh thần” của con người được Thiên Chúa trao sứ mạng khám phá và làm tỏ lộ chân lý của thực tại đã được Thiên Chúa ghi khắc. Tuy nhiên, đó không phải là một thứ trò chơi tìm mật thư, vì chân lý Thiên Chúa đặt trong thực tại không phải là một công thức cố định và đã hoàn thành, nhưng là một thứ chân lý có thể được triển nở phong phú nhờ khả năng sáng tạo mà chính Thiên Chúa ban cho con người. Ta có thể tạm gọi chân lý khách quan trong thực tại là “cái chân” hay “cái lý”, còn điều con người khám phá và sáng tạo là “cái thực” hay “cái lẽ”. Cái chân là một nhưng lại có thể triển nở phong phú trong cái thực qua muôn vàn cảm nhận tinh tế và riêng tư của chủ thể người; cái lý là căn bản, nhưng lại được tiếp thu ở những khía cạnh khác nhau làm nên lẽ sống cho mỗi con người. Một Đức Giêsu lịch sử duy nhất nhưng lại được đón nhận trong kinh nghiệm đức Tin khác nhau qua bốn tác giả Tin mừng, hoặc qua thánh Phaolo và thánh Phêrô… Sự phong phú ấy chẳng những không phá huỷ chân lý duy nhất khách quan, nhưng đúng là vận hành chân thực của sự sống, sao cho thực tại được chính con người nhân hoá và thánh hoá.

    Sứ mạng ấy chỉ có thể có được khi con người có một thế giới nội tâm với những giá trị nhân bản và siêu nhiên chân thật, phong phú. Ngược lại, một khi bị lệch lạc trong giá trị, con người sẽ bóp méo thực tại, không tìm được ý nghĩa căn bản của thực tại và, hoặc rơi vào duy tâm, hoặc thường xuyên hơn, rơi vào thái độ duy-thực-tiễn, nghĩa là chỉ thấy những giá trị dính chặt vào mối tương tác thực nghiệm của thực tại thô. Một khi không được giáo dục những giá trị nhân bản đích thực, khi tính tập thể lấn át đời sống riêng tư, khi người ta không có hoặc thiếu hụt đời sống nội tâm, người trẻ hôm nay dễ bị cuốn hút vào cái lợi ích, cái sung sướng bên ngoài. Không có đời sống nội tâm, con người dễ đánh mất khả năng phản tỉnh và cuộc sống chỉ là chạy theo những mục tiêu thực tiễn, thực dụng, theo từng vụ việc. Có thể điều đó giải thích được phần nào tình trạng “đa nhân cách xã hội học” của một bộ phận người Việt Nam hiện nay quá dễ dàng thay đổi thái độ của mình trong từng hoàn cảnh mà không hề cảm thấy ngượng ngùng. Người ta có thể vừa nói đạo đức trên bục giảng rồi ngay sau đó vẫn có thể làm những điều hoàn toàn trái ngược với điều mình đã nói...

    3.2. Nỗi sợ và tâm thức đối phó

    Vì cuộc sống con người luôn là một bài toán chưa có đáp số, là một hành trình chưa tới bến bờ, nên tâm hồn con người luôn có một thứ “bản năng phòng vệ”. Mỗi cuộc gặp gỡ không chân chính là mỗi lần người ta phải chiến đấu, phải suy tính cách nói, phải tìm thái độ thể hiện… Thế giới hiện đại đã đẩy khuynh hướng phòng vệ ấy lên cao, đến độ con người hiện nay luôn sống trong nỗi sợ.

    Henri Nouwen, trong cuốn “Những dấu chỉ của sự sống” nói rằng: “…trong phần lớn thời gian, người công dân thế kỷ XX sống trong nỗi sợ. Nó trở thành căn hộ thường trú của chúng ta, trở thành nền tảng của những quyết định và hoạch định của chúng ta. Cuộc sống có quá nhiều nỗi sợ; người ta hầu như lúc nào cũng có một cái gì đó làm cho sợ; chúng ta gần như không tìm thấy được một người không sợ…”[17]

    Nỗi sợ khắp nơi làm cho người ta không còn là mình, không còn có khả năng tìm lại chính nét độc đáo thân thương của mình. Đúng ra, khi chọn vào đại học, hoặc khi chọn môi trường làm việc, chọn ơn gọi gia đình hay ơn gọi tu trì…, người ta đang chọn chính mình, chọn phương cách mình là… Tuy nhiên, nỗi sợ, cùng với sự thiếu hụt tính chủ thể, khiến cho người trẻ vẫn tiếp tục chọn “cái gì” (what), chọn làm “thế nào” (how)… để đối phó với thách đố bên ngoài…; và cho dù đạt đến trình độ học vấn cao, người ta vẫn không thể đặt được câu hỏi tại sao (why) để duyệt chính cho lý do hiện hữu của mình.

    Quả thật, con người chỉ là mình trong tương quan, nhưng đó là tương quan hiệp thông chứ không phải tương quan cạnh tranh. Tương quan cạnh tranh dễ làm cho người ta đánh mất ý nghĩa bản thân mình, vì lo khẳng định mình “theo đuôi” người khác; tương quan hiệp thông lại giúp ta khám phá khát vọng bên trong và giúp ta khẳng định mình trong hoàn cảnh riêng của chính mình.

    Trong tương quan cạnh tranh, ta nhìn tha nhân như một người đe dọa và ta đi vào cuộc đời như một cuộc đấu tranh; trong đó, sự vươn lên của tha nhân làm cho ta sợ hãi, và sự sụp đổ của tha nhân lại làm ta khoái chí. Khi ấy, lòng ta luôn bất an, vì ta giỏi thì có người giỏi hơn ta : ta sợ người đẹp hơn ta, ta sợ người giỏi hơn ta, ta sợ người tài hơn ta, ta sợ người giàu hơn ta…; khi ấy người ta rơi vào căn bệnh “đứng núi này trông núi kia cao”, luôn thấy người khác có điều hơn mình khiến mình phải thèm thuồng; khi ấy, ngấm ngầm trong ta là một ý nghĩ ghen tỵ, cái tình cảm nhỏ nhen ấy làm cho ta buồn với sự lành và vui với sự ác nơi người khác, chứ không phải là “vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12, 15). Người ta dễ chia buồn và khó chia vui là như vậy.

    Văn hoá cạnh tranh và nỗi sợ làm cho người ta không thực sự thanh thản để có thể sống-với. Khi nào con người không còn bận tâm về việc khẳng định trước mặt người khác, nghĩa là khi được thoát khỏi nỗi sợ thì con người mới có thể hiện diện với người khác một cách thanh thản và chân thật. Khi con người khám phá ra mình trong tương quan hiệp thông, người ta khám phá ra nét đẹp của bản thân mình, người ta vui thích với chính mình, và nhận ra mình có thể cống hiến cho người khác phẩm chất của riêng mình. Biết chính mình, biết hoàn cảnh và con người của mình, biết khát vọng và ý nghĩa thực sự của bản thân mình, người ta không cảm thấy tha nhân như một người đe dọa, nhưng như một người nâng đỡ; và khi đó, sự hiệp thông mới có thể bắt đầu.

    3.3. “Trao đổi” lấn lướt “trao tặng”

    Trao đổi là một khả năng đặc biệt của con người. Chính nhờ trao đổi mà con người có thể xây nên những công trình lớn lao của nhân loại. Tuy nhiên, trao đổi không giải quyết được tất cả vấn đề của cuộc sống con người và nhất là thế giới của sự trao đổi không phải là mục tiêu tối hậu của phận người. Thật ra, trên thế giới, chẳng nơi nào có được một sự trao đổi hoàn toàn công bằng; và nói chung, trao đổi là phương thức của kẻ mạnh. Chỉ có sự trao tặng và đón nhận với lòng tri ân mới là đời sống nghĩa tình và là tương giao chân thật ở mức độ người.

    Chúng ta có thể thấy rõ sự khác biệt của hai phương thức ấy khi so sánh thế giới trong nhà và thế giới ngoài đường. Khi ta đi ra đường, mọi sự đều là đổi chác. Trong thế giới ngoài đường, từ những đồ vật cho đến thân xác con người, từ những tài năng cá nhân cho đến vị thế xã hội, và cả đức độ của một con người, tất cả đều được đưa vào bài toán kinh tế thị trường, nghĩa là được đặt lên một bàn cân để cân nhắc lời lỗ cho một cuộc trao đổi. Nét đặc trưng của việc buôn bán này là làm sao hai bên cùng có lợi. Mặt khác, việc mua bán đổi chác ấy luôn là chuyện thời vụ, hiểu theo nghĩa là trong từng “hợp đồng” có tính tương đối ngắn hạn, bởi vì đó không phải là giao ước đụng chạm đến bản thân.

    Trong khi đó, khi về đến gia đình, người ta sống trong một bầu không khí khác, bầu không khí của một sự chấp nhận bản thân của nhau. Khi đó, những tương quan hằng ngày không còn phải là đổi chác nhưng là trao tặng.

    Cuộc trao đổi của thế giới ngoài đường không đụng đến được bản thân của con người, chỉ là những trao đổi những sự vật (sự vật là tất cả những gì không phải là chính bản thân của con người). Trong thế giới trao đổi sự vật đó, nếu người ta có xúc phạm đến phẩm giá tha nhân, hoặc đối xử lịch sự với nhau, thì thật ra đó cũng chỉ là chuyện “lễ nghĩa” mà thôi. Trên nền tảng ấy, cuộc đối thoại ngoài đường thật ra cũng chẳng phải là cuộc đối thoại thoả mãn được khát vọng sống với của con người.

    Ở trong gia đình, người ta chấp nhận bản thân của nhau. Nơi đây, những gặp gỡ, trao đổi hằng ngày, không phải là trao đổi nhưng hướng mở tới một sự liên kết sâu hơn, làm dày lên nghĩa tình trong hành trình cuộc sống. Trong gia đình, mọi “trao đổi sự vật” chỉ là một cách diễn tả của bản thân cho nhau; trong khi đó, nơi thế giới ngoài đường, chính bản thân lại có nguy cơ bị giản lược vào “sự vật” để đổi chác.

    Có thể nói chiều sâu của cuộc khủng hoảng xã hội hiện nay chính là sự đảo lộn giá trị giữa trao đổi và trao tặng. Từ thập niên 60 của thế kỷ trước, khi cô sinh viên 19 tuổi Francoise Sagan đưa ra một thứ chủ trương mà người ta gọi là “sự vật hoá tình dục”, tình dục không còn là “trao thân – gửi phận” cho nhau trong đời sống hôn nhân như truyền thống, mà chỉ đơn giản là món đồ chào mời nhau, như điếu thuốc hay một ly nước…, từ khi đó đến nay, thứ văn hoá trao đổi đã càng ngày càng xâm chiếm mảnh đất của trao tặng. Người ta trao đổi mọi thứ, “cái gì không mua được bằng tiền thì mua được bằng rất nhiều tiền”. Hiện nay, chính tình yêu cũng bị sự vật hoá thành một hợp đồng trao đổi sòng phẳng. Tình yêu theo quan niệm Kitô giáo, không bao giờ có thể trao đổi được, vì tình yêu đích thực hướng tới việc hình thành một “cộng đồng ngôi vị”, mà ngôi vị là một phẩm giá vô giá không thể trao đổi được, chỉ có trao tặng trong tự do và chỉ được lãnh nhận với lòng tri ân. Giới trẻ hiện nay phải chăng đã đánh mất ý nghĩa của trao tặng bản thân trong tương quan tình nghĩa?

    Nếu Đức Giêsu đã công bố Nước Trời trong thế giới của “chữ Phúc”, thì người Kitô giáo cũng tin chắc rằng cuộc sống nhân sinh chỉ có thể được giải quyết trong nguyên lý trao tặng, nhờ nối kết vào sự trao tặng của Thiên Chúa, Thiên Chúa đã trao tặng chính Con Một của Ngài cho nhân loại.

    “Thật vậy, nếu ngay khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của Người phải chết mà cho chúng ta được hoà giải với Người, phương chi bây giờ chúng ta đã được hoà giải rồi, hẳn chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của Người Con ấy” (Rm 5,10).

    3.4. Bài toán thay thế câu chuyện

    Bình thường, một bài toán đúng chỉ có một kết quả. Trong bài toán, khi có những dữ kiện, thì kết quả gần như đã có rồi. Những cách giải toán dù có biến thiên hay khác biệt nhau thế nào, thì cũng vẫn chỉ là một lô-gíc cố định, đưa tới đáp số đã có và chỉ có thể đi đến đáp số ấy mà thôi.

    Câu chuyện[18] thì khác. Câu chuyện luôn bất ngờ. Người ta tò mò hoặc say sưa đọc truyện, nghe chuyện vì muốn biết được kết cục của câu chuyện, vì muốn nhìn thấy một kết cục mới lạ... Khi mà tác giả tìm thấy những tình tiết vừa chân thực, vừa "hợp lý", lại vừa tạo nên một sự chuyển hóa thật ly kỳ thì câu chuyện trở nên hấp dẫn và có giá trị...

    Cuộc đời con người không phải là một bài toán đúng nghĩa, nhưng là một câu chuyện đúng nghĩa. Một con người là một huyền nhiệm và một cuộc đời luôn hàm chứa những bất ngờ, luôn ẩn chứa một hoặc nhiều khả năng "sáng tạo". Sự có mặt của một con người nào đó chính là dấu chỉ xuất hiện một cái mới, một bắt đầu mới và luôn có thể trở nên mới...

    Câu chuyện của mỗi con người có những tình tiết riêng và mỗi tình tiết, cho dù là những tình tiết xấu hay tốt về mặt thể lý hay luân lý, cũng đều góp phần làm nên bản sắc và vận mạng của chính nhân vật ấy. Cái mới đích thực của đời người luôn gắn liền với “con người tại thế”, nó nẩy sinh từ chính những dữ kiện cụ thể của lịch sử và cách mỗi người lý giải những dữ kiện ấy trong tự do. Câu chuyện đời luôn đón nhận nguồn cội trong dòng lịch sử thật, nhưng lại luôn hàm chứa những yếu tố, những cách lý giải có thể khác, luôn có thể vượt qua thứ lô-gíc toán học để bay lượn trong bầu trời của tự do. Con người ta có tự do, và phương thức giải toán đời người trở nên thiếu sót; đáp án đời người trở thành một tác phẩm nghệ thuật được sáng tạo với tất cả tài năng của người nghệ sĩ chứ không phải là một thành quả kỹ thuật được xếp hạng cao thấp...

    Mỗi con người chính là người kể chuyện đời mình. Mỗi người là một đạo diễn, là một tiểu thuyết gia, là người nghệ sĩ đích thực trên chất liệu cuộc đời mình. Thiên nhiên và xã hội cung cấp cho con người những dữ kiện, nhưng chính con người mới là kẻ cấu trúc nên câu chuyện đời mình. Người ta thường nói "xấu nhưng cấu trúc đẹp", đó cũng là cách nói thay cho kiểu nói "nhất dáng nhì da"... và cách nói chơi đùa ấy cũng có thể hàm một ý nghĩa "triết lý" sâu xa. Chất liệu làm nên bức tranh hoặc pho tượng nào đó có thể không tốt, nhưng điều đó không có nghĩa là người ta không thể tạo nên được một tác phẩm nghệ thuật tuyệt hảo. Với con người, điều đó càng đúng hơn rất nhiều, nếu người ta bỏ đi được cách nhìn so sánh thô thiển, nếu người ta đừng đánh giá được thua theo tiêu chuẩn của một thứ thành đạt xã hội nào đó.

    Thế giới hiện đại càng ngày đánh mất ý nghĩa của câu chuyện và càng ngày người ta càng chuẩn hoá cuộc sống theo một bài toán. Các bạn trẻ là những người bị thúc bách do bài toán cuộc đời nhiều hơn hết. Các bạn vừa không có được kinh nghiệm của một nếp sống an hoà như các cha anh, lại vừa phải bước vào đời trong sự cạnh tranh khốc liệt, nên càng dễ rơi vào cách nhìn cuộc đời như một bài toán, tính toán cuộc đời như một kỹ thuật, và văn hoá thời đại lại cung cấp cho các bạn mọi thứ “kỹ thuật” (hiểu là mưu mẹo) phi nhân.

    3.5. Sung sướng mà không Hạnh phúc

    Nói chung, người ta đồng ý với nhau về khát vọng sâu xa nhất của con người là hạnh phúc, nhưng người ta lại khó đồng ý với nhau về bản chất của hạnh phúc. Chính sự mập mờ ấy đưa đẩy con người vào những nẻo đường tìm hạnh phúc khác nhau, và dĩ nhiên cũng đưa đến những kết quả khác nhau. Chúng ta thử tiếp cận vấn đề bằng cách so sánh hạnh phúc với sung sướng:

    - Hạnh phúc thì không đo đếm được, trong khi sung sướng thì đo đếm được;

    - Hạnh phúc xuất phát từ ý nghĩa và đó là ý nghĩa dính dáng tới vận mạng của cả một phận người, trong khi sung sướng chỉ là kết quả của một bài toán so sánh;

    - Hạnh phúc mang lại động lực sung mãn cho sự sống trong khi sung sướng chỉ làm thoả mãn và làm cạn kiệt sinh lực;

    - Hạnh phúc và sung sướng không đương nhiên tỷ lệ thuận với nhau; nhưng thường là tỷ lệ nghịch với nhau. Con người có cứu cánh là hạnh phúc và sung sướng chỉ chân chính khi được bao bọc trong hạnh phúc. Người nào đi tìm sung sướng ngoài hạnh phúc thì sẽ dần mất khả năng nếm cảm hạnh phúc đích thực.

    Trong thế giới xô bồ nhiễu nhương ngày nay, ta thấy phần lớn các bạn trẻ không phân biệt được hạnh phúc và sung sướng, không đủ sức mạnh để dám sống niềm hạnh phúc trước sức mạnh nghiệt ngã của qui luật xã hội và dư luận… nên cũng buông theo cuộc chạy đua tìm sung sướng mà không hạnh phúc…

    Một số bạn trẻ khác, để đối phó với thế giới xô bồ và nhiễu nhương, đã cố gắng tìm những hoàn cảnh an ổn, tận hưởng những niềm vui đơn giản và thanh thản khi có thể… đó là những phương cách tìm hạnh phúc bằng những “chuyện trong tầm tay”…

    Ta cũng thấy một số khác, ít hơn, khao khát muốn tìm hạnh phúc bằng những phương thức rèn luyện nội tâm, thiền hay yoga… để tìm hạnh phúc bằng một tâm hồn thanh tịnh, vững vàng trước áp lực của cuộc sống quá xô bồ… Đây là những nỗ lực đáng trân trọng…

    Như thế, nếu quả thực hạnh phúc là khát vọng sâu xa nhất của đời người, thì tình trạng hiện nay trong đất nước Việt Nam cũng có thể thấy các bạn trẻ ngày nay đang đứng trước một sự rối rắm, hỗn độn về chính ý nghĩa của đời người.

    Thật ra, hạnh phúc là khát vọng sâu xa và trọn vẹn của đời người, hạnh phúc ấy gắn liền với cứu cánh.[19] Người ta được hạnh phúc khi bắt đầu nếm cảm được ý nghĩa trọn đời mình đã được hé lộ, nghĩa là sự thành toàn của cả một vận mạng đời người, mặc dù chỉ mới ở dạng “men”, dạng “hạt”. Tình trạng lầm lộn hạnh phúc với sung sướng cho thấy rõ sự thiếu hụt cảm quan về cứu cánh của con người ngày nay.

    4. Thử khám phá những nguyên nhân gây bùng phát

    Đọc nhật báo, người ta có thể thấy những sự kiện nóng bỏng của thời cuộc, nhưng đó là những sự kiện đơn lẻ. Đọc tạp chí, người ta sẽ dễ thấy hơn mối liên kết của nhiều sự kiện đơn lẻ và có thể nhận ra những “vấn đề”. Tuy nhiên, những vấn đề xã hội hoặc tâm lý luôn nằm trong giới hạn của một loại đối tượng, trong một không gian và thời gian xác định, chẳng hạn tình trạng xuống cấp đạo đức nơi giới trẻ (đối tượng cụ thể) tại Việt Nam (không gian) hiện nay (thời gian). Nếu lặn xuống sâu hơn nữa, người ta có thể khám phá những vấn đề thật ra cũng chỉ là biểu lộ những thách đố muôn thuở của phận người. Chính ở tầng sâu này, người ta có thể khám phá ra một thứ khủng hoảng chân lý chứ không phải chỉ là khủng hoảng xã hội hoặc chỉ là khủng hoảng tâm trạng của một con người. Chính ở tầng sâu này, người ta không chỉ khám phá ra “phẩm tính luân lý” mà còn nhận thấy “phẩm tính siêu hình” của phận người.

    Thật ra, hầu hết những “sự kiện” lẻ tẻ đều gắn liền với “vấn đề”; và các vấn đề thì luôn dính dáng đến “thách đố muôn thuở” của phận người. Một khi triết lý về con người bị lệch lạc, xã hội sẽ nẩy sinh vấn đề và sẽ bùng phát thành những sự kiện. Những thách đố muôn thuở của nhân loại luôn xuất phát từ quan niệm triết học về con người, quy luật ấy hình như được kiểm nghiệm một cách rõ ràng trong bầu khí một quốc gia xã hội chủ nghĩa, khi mà tất cả triết học và tất cả những ngành nghiên cứu hoặc những giá trị được cổ võ trong cuộc sống đều được hướng dẫn do một nền triết học duy nhất. Ở Việt Nam hiện nay, chúng ta cũng có một “cơ may” đặc biệt để thử khảo sát đời sống của các bạn trẻ được sinh ra, lớn lên và được giáo dục hoàn toàn trong môi trường xã hội chủ nghĩa; nơi mà, ở các lớp phổ thông, triết học duy vật là triết học duy nhất được giảng dạy; ở các lớp đại học, triết học duy vật là triết học duy nhất đúng; trong đời sống xã hội, triết học duy vật là nguyên lý duy nhất hướng dẫn và giải quyết mọi vấn đề…

    Con người vẫn luôn là kẻ đi đường. Con người phải mò mẫm và sai lạc thì cũng vẫn là chuyện bình thường của đời người. Nhưng người ta có thể nhận ra một sự bùng phát về sự ác trong đất nước chúng ta trong vài thập niên gần đây. Có một hoặc nhiều nguyên nhân nào trực tiếp làm gia trọng tình trạng đạo đức xã hội không?

    4.1. Con người cần quy chuẩn tuyệt đối và chân thực

    Con người hiện diện trong thế giới này luôn phải đối diện với nhiều cái mênh mông vô tận, cái mênh mông vô tận của không gian, của thời gian, của biết bao giá trị và của chính bản thân con người. Những tiến bộ về khoa học thực nghiệm của thời Cận đại Tây phương đã từng tạo ra ảo tưởng rằng con người có thể khám phá tất cả mọi sự và thống trị mọi sự. Tuy nhiên, đến thế kỷ XX, người ta đã thấy tham vọng đó là một ảo tưởng khá ngây ngô.

    Trong cái mênh mông vây bọc, làm sao con người có thể sống được nếu không có điểm quy chiếu tuyệt đối? Không có điểm quy chiếu tuyệt đối mang tính siêu hình, có tính cách vững bền, thì cuộc sống con người sẽ chỉ là những tình huống đối phó nhất thời. Điều đó sẽ phân mảnh chính thân phận con người nói chung và phân mảnh mỗi con người. Đó là điều mà Thomas Hobbes nói tới con người ở giai đoạn tự nhiên, khi đó, con người là chó sói đối với con người (homo homini lupus).

    Chính vì con người không thể sống trong thế giới ấy, ta thấy, theo ghi nhận của K. Jaspers, xuất hiện Thời Trục, từ khoảng thời gian từ thế kỷ VIII tcn đến thế kỷ II tcn, khoảng thời gian mà, trong các nền văn minh lớn, Trung Hoa, Ấn Độ, Ba Tư, Hy Lạp, Israel…, con người bắt đầu tìm được những quy chuẩn siêu hình làm nền tảng cho dòng lịch sử, và toàn bộ lịch sử phát triển của nền văn minh sau đó đều xoay quanh những quy chuẩn ấy…

    Nếu theo nhận định của Jaspers, Thời Trục là thời gian “xuất hiện những con người đích thực mà chúng ta còn chịu ảnh hưởng cho đến ngày nay”,[20] và đó là quãng thời gian “đâu đâu cũng thấy con người ý thức về toàn diện sự hữu, về chính họ và về những giới hạn của họ”,[21] thì chúng ta có thể nhận ra thời kỳ này là giai đoạn con người thực hiện được những cuộc đột phá mang tính “siêu hình”, nghĩa là con người không còn hoàn toàn bị dính vào những hoàn cảnh cụ thể, những ứng xử tuỳ thời, nhưng khám phá ra những giá trị căn bản của “sự hữu”, của bản chất con người, vượt qua cả sự sống và cái chết.

    Quả thật, người ta nhận ra trong Thời Trục sự “lên ngôi” của một số giá trị làm nên nền tảng căn bản cho cuộc sống nhân sinh và đồng thời, cũng chân nhận hành trình đời người gắn liền với những giá trị “siêu hình” ấy. Từ đây, giá trị nhân tính được xác định và là mục tiêu tối hậu trong cuộc sống, trở thành chuẩn mực nhân linh căn bản. Dù hoàn cảnh lịch sử có tạo nên nhịp điệu “lắc lư” của giá trị ấy, nhưng cuộc sống vẫn không thể tách rời cái giá trị căn bản mang ý nghĩa như căn tính của phẩm giá con người.

    Chính điểm quy chiếu tuyệt đối và vững bền ấy là hạt nhân cho triết học về con người, hạt nhân của “thách đố muôn thuở của phận người” có tầm quan trọng nền tảng của mọi thực trạng xã hội.

    Theo triết học Mác-xít, con người vừa là thành phần của thế giới tự nhiên, vừa mang bản chất xã hội. Hai yếu tố tự nhiên và xã hội tương tác làm nên ba hệ thống chi phối toàn bộ đời sống con người: 1/ Hệ thống các quy luật tự nhiên, đó là con người sinh học; 2/ Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người, với yếu tố quan trọng nhất là lao động sản xuất; 3/ Hệ thống các quy luật tâm lý, đó là con người trong ý thức với những yếu tố tình cảm, khát vọng, ý chí.

    Ba yếu tố ấy hoà với nhau để làm nên cuộc sống con người, trong đó, những khát vọng sinh học của con người cần được nhân hoá để mang những giá trị văn minh của xã hội con người. Nhưng ngược lại, nhu cầu xã hội không thể tách biệt khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học…

    Tuy nhiên, điều ta có thể thấy rõ là, theo triết học Mác, tất cả những yếu tố làm nên con người, chỉ có điểm quy chiếu tuyệt đối là tính vật chất. Có thể, trong một thời đại mà cuộc sống tương đối ổn định và có một đại đa số những con người trong xã hội có thể sống những giá trị “văn minh” một cách hài hoà với nhu cầu sinh học, thì người nào không hoà được vào cuộc sống ấy sẽ bị loại trừ, và lợi ích chung được bảo đảm. Khi đó, chính nề nếp xã hội là quy chuẩn cho cá nhân và cho từng tình huống mà cá nhân phải xử lý. Tuy nhiên, từ khoảng giữa thế kỷ XX, cuộc sống của thế giới không còn ổn định nữa. Thế giới biến chuyển quá nhanh, mọi dự đoán tương lai đều có nguy cơ sai lạc, hình ảnh phát triển của lịch sử không còn là một đường thẳng uốn lượn nhưng là sự phát triển hình nan quạt, trong đó một yếu tố bất ngờ nào đó bỗng có thể trở thành đường hướng chủ đạo. “Lý thuyết hỗn độn”[22] đã trở thành nguyên lý giải nghĩa vận hành của thế giới hiện đại… Trong thế giới này, mọi xã hội, tự nó, vốn đã không thể là quy chuẩn tuyệt đối cho chính mình, và nếu không tìm thấy một quy chuẩn nào khác bên trên mình, chắc chắn sẽ trở nên hỗn độn và không thể trở thành quy chuẩn cho những cá nhân trong xã hội.

    Chúng ta có thể thấy rất nhiều hiện tượng bộc lộ tình trạng mất quy chuẩn trong xã hội Việt Nam hôm nay:

    - mặc dù theo nguyên tắc, đạo đức Mác-xít gắn liền với lợi ích, nhưng để cổ võ một thái độ hy sinh anh hùng, hoặc đề cao một giá trị tốt đẹp trong xã hội, người vô thần cũng lại phải nại vào những nguyên lý hy sinh, vô vị lợi... là những điều khó có thể dung hợp được với quy chuẩn vật chất;

    - không ít người chủ trương vô thần trong lý thuyết nhưng lại tìm an toàn cho đời sống hằng ngày bằng đủ mọi hình thức mang tính tâm linh, đôi khi mê tín;

    - con người quá dễ dàng giết nhau, triệt hạ nhau bằng những trò bẩn thỉu, hiện tượng tiền bạc làm “mờ mắt” hầu hết các người có chút điều kiện để trục lợi;

    - hiện tượng gian dối như chuyện thường ngày;

    - hiện tượng tràn lan những người dám làm những chuyện độc hại nguy hiểm đến tính mạng và sức khoẻ của người khác chỉ để kiếm lợi…

    Rõ ràng là những hiện tượng ấy biểu lộ tình trạng mất quy chuẩn vững bền của xã hội. Tình trạng đó có dính dáng đến chủ trương chỉ dạy một học thuyết duy nhất đúng trong các trường trung học không? Quả thật, để sống trọn học thuyết ấy, con người phải có một “trình độ” tư cách rất cao. Trong những xã hội nhiễu nhương, mọi nỗ lực gọi là “nhân hoá theo đà văn minh”… sẽ đổ sụp, tạo nên một tình trạng bùng phát sự ác, và đó giống hệt điều Thomas Hobbes (1588 - 1679) mô tả về giai đoạn tự nhiên của con người, thế giới “con người là chó sói cho con người”.

    Đức Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II nói: “Ở đâu con người nghiệm thấy lời mời gọi đi đến cái tuyệt đối và siêu việt, là nó đã được thoáng nhìn thấy chiều kích siêu hình của thực tại: như trong điều chân và mỹ, trong những giá trị luân lý, trong ngôi vị của tha nhân, trong chính hữu thể, trong Thiên Chúa”.[23] Quả thật, luân lý, hoặc nói chung chân-thiện- mỹ, phải gắn liền với chiều kích tuyệt đối, gắn liền với dấu ấn “siêu việt”, và điều đó làm nên nét đặc trưng của phẩm giá con người.

    Ngược lại, trong một xã hội hiện tại của chúng ta, hoặc là người ta mất quy chuẩn, hoặc là người ta phải trở về với quy chuẩn vật chất, và cả trong hai trường hợp đó, trong lòng con người, mọi sự đều “được phép”, nếu như, bên ngoài, người ta có thể tránh được sự trừng trị của luật pháp. Trong tình trạng ấy, một số người sẽ phải biến những chuẩn mực nào đó trở thành tuyệt đối, một cách giáo điều và đầy tính “siêu hình”. Ngược lại, một số khác sẽ vận dụng tính biện chứng như phương cách để phá đổ mọi nguyên tắc siêu hình về đạo đức, chứ không phải để phát triển một giá trị chân chính nào cả. Tóm lại, trong một thế giới hỗn độn hiện nay, nếu không có chuẩn mực siêu hình chân thật, người lại phải trở về với nguyên lý vật chất như một nguyên lý “phi-nhân” (theo ý nghĩa nền tảng là không có con người), cùng với tất cả những hệ luỵ “phi-nhân” tất yếu (với ý nghĩa không xứng đáng với phẩm giá con người).

    Quy định chỉ dạy duy nhất một học thuyết duy vật trong giáo dục và chỉ áp dung duy nhất một nguyên lý duy vật cho toàn xã hội, chắc chắn, hoặc đưa đến như một hậu quả đương nhiên, hoặc được xác định rõ ràng như một chính sách, thái độ thù hận với mọi tôn giáo và loại trừ mọi tư tưởng khác. Điều đó, về bản chất, không khác gì với “toà án dị giáo” trong thời Trung Cổ Tây Âu mà các sách triết học và sử học trong xã hội này không ngừng chửi rủa.

    Có lẽ nhận ra được nguyên nhân sâu xa của tình trạng xuống cấp đạo đức của đất nước Việt Nam hiện tại bắt nguồn từ những nền tảng triết lý, nên đã có một số tác giả khẳng định phải tìm lại yếu tố siêu hình. Tác giả Trần Nguyên Việt,[24] trong khi cố gắng nối kết những giá trị truyền thống của dân tộc với những giá trị của nhân loại nói chung để lý giải sự khủng hoảng đạo đức hiện nay, đã viết:

    “Cái được toàn thể loài người chấp nhận từ các nền văn minh khác nhau, trong đó có cái đạo đức mà chúng ta đang đề cập tới luôn mang tính bền vững và ổn định cao, đồng thời tồn tại một cách khách quan, không phụ thuộc vào tính dân tộc, tính giai cấp và thể chế xã hội của bất cứ dân tộc nào. Nó mang tính giá trị cao bởi vì tính chất nền tảng của đạo đức nhân văn trong việc ổn định và phát triển các mối quan hệ giữa các cộng đồng người trên hành tinh, giữa toàn thể nhân loại với môi trường sinh thái hoàn cầu”.[25]

    Những giá trị phổ biến ấy đặt nền tảng luân lý mang tính “siêu hình” trong lương tâm con người chứ không phải là những giá trị ngẫu nhiên và tùy thời của môi trường kinh tế hay hoàn cảnh xã hội. Chính vì thế, Đỗ Minh Hợp khẳng định “siêu hình học, về nguyên tắc, là không thể loại ra khỏi tồn tại người”,[26] và sau khi đã minh chứng trong suốt bài viết về khẳng định ấy, tác giả Đỗ Minh Hợp kết luận:

    Trong con người luôn có nhu cầu siêu việt hoá - vượt ra khỏi giới hạn của tồn tại hiện có. Và chỉ có siêu hình học mới đáp ứng bằng cách tìm tòi các nền tảng văn hoá của tồn tại người. Văn hoá tồn tại người được coi là con đường siêu việt hoá của con người, và do vậy, siêu hình học biến thành siêu hình học văn hoá. Toàn bộ nhân học hiện đại, về thực chất, là cái đóng vai trò siêu hình học hiện đại.[27]

    Chúng ta có thể thấy dấu ấn “siêu việt” trong trong những nền văn hoá khác nhau như một giá trị tuyệt đối vượt trên những biến thiên của môi trường, của hoàn cảnh, vượt trên “bài toán” phản ánh của thế giới hiện thực khách quan vào ý thức con người. Con người cần phải thực hiện vận mạng của mình, cần phải bảo vệ phẩm giá của mình, và điều đó là một đòi hỏi vượt trên cả chính sự sống của mình nữa.

    4.2. Con người cần lãnh nhận chân lý

    Một nền triết học lấy quy chuẩn tuyệt đối là vật chất đương nhiên cũng không thể đạt đến được thái độ tôn trọng. Không có Thượng Đế, nhân phẩm và nhân quyền chỉ còn dựa vào tính-loài như một thành phần của thiên nhiên và nhờ vào sự công nhận của Nhà Nước về phẩm giá người. Nhưng Nhà Nước cũng chỉ là một hiện tượng không vững bền trong dòng lịch sử, nó đến và nó đi, nó có thể thế này và thế kia… tuỳ theo lực lượng và tương quan sản xuất của xã hội… Con người như thế không có phẩm giá người như một giá trị tự tại và vững bền. Từ đó, nếu để ý phân tích theo kiểu hiện tượng luận, người ta có thể thấy hệ quả trong thực tiễn của lập trường giản lược quy chuẩn tuyệt đối vào vật chất đưa tới sự thiếu hụt tính tôn trọng, thiếu hụt sự tôn trọng đối với con người như một phẩm giá bất khả xâm phạm và thiếu hụt sự tôn trọng thực tại đích thực. Trong khi thế giới, cụ thể là triết học Tây phương, từ thế kỷ XX, đã cảm nhận được, và tương đối đồng thuận với nhau, về một chiều kích “huyền nhiệm” của thực tại, thì học thuyết Mác vẫn còn duy trì hầu như nguyên si một “niềm tin” quá lạc quan về sức mạnh của khoa học thực nghiệm. Mặc dù khoa nhận thức luận Mác-xít luôn khẳng định về nền tảng hiện thực và qui chuẩn của hiện thực, nhưng hiện thực ấy lại không thể thoát ra khỏi chân trời vật chất và chỉ là một hiện tượng mỏng manh trong quá trình biện chứng, nên người ta dễ dàng sử dụng hiện thực, thậm chí là thường xuyên tuyên truyền để bẻ quặt ý nghĩa khách quan của hiện tượng cho mục tiêu chính trị.

    Đối với con người, nền tảng duy vật khó lòng giúp người ta tìm được một nền tảng siêu hình cho phẩm giá một con người, một phẩm giá cần được tôn trọng hơn mọi kết quả thực nghiệm nào. Người theo chủ nghĩa Mác-xít khó lòng đạt được nhận thức về “chữ nhân” như giá trị siêu việt nơi mỗi cá nhân, nhưng chỉ giải quyết tương quan con người bằng lập trường “bạn ra bạn, thù ra thù”, và cũng bấp bênh theo thời cuộc để đổi bạn thành thù, đổi thù thành bạn, chứ không tìm được thái độ tôn trọng mọi người, trong khát vọng “tứ hải giai huynh đệ”. Không đạt đến giá trị của chữ nhân, người ta quá dễ dàng sử dụng những “con dê tế thần” để đạt được mục đích chính trị. Những quyết định theo kiểu “phải giết 200 ngàn người để đổi lấy 20 năm ổn định” (quyết định của Đặng Tiểu Bình trong cuộc thảm sát Thiên An Môn) dĩ nhiên là giải pháp trong những tình huống khó khăn; tình huống khó khăn đối với những người lãnh đạo như thế cũng giống như tình trạng xã hội nhiễu nhương đối với người dân, và phần nghiêng ngả về mục tiêu chính trị dễ dàng chiếm nhiều ưu thế hơn phần giá trị nhân bản.

    Học giả Đỗ Duy Minh[28] nói về việc khám phá khái niệm “nhân” nơi đức Khổng Tử:

    Sự tập trung vào tính chất quan trọng hàng đầu và tính đa diện phong phú của khái niệm nhân trong Luận Ngữ là một biến cố vĩ đại trong vũ trụ, biểu tượng của tư duy Trung Quốc thời cổ và rõ ràng cho thấy rằng sự đột phá này mang tính siêu nghiệm theo ý nghĩa là khái niệm Nhân, lần đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, nhằm chỉ định một giá trị tối hậu vượt qua cả sự sống và cái chết. Khổng Tử nói: “Một bậc thức giả cương quyết và một con người có lòng nhân sẽ không bao giờ tìm cách sống mà để làm hại lòng nhân. Anh ta thà là hi sinh cuộc sống của mình để thực hiện lòng nhân”.[29]

    Nói tóm lại, một nhận thức luận thiếu hụt sự tôn trọng đối với con người như một phẩm giá bất khả xâm phạm và thiếu hụt sự tôn trọng thực tại đích thực vẫn thường mang dáng dấp “đánh ai vì cái gì” chứ không phải lập trường “đánh cái gì vì ai”. Chiều hướng ấy phản ảnh thái độ đối phó hoặc bằng cách chế tạo ra chân lý, hoặc quá dễ dàng cho rằng mình đã chiếm hữu được chân lý; ngược với thái độ trân trọng chân lý, khiêm tốn lãnh nhận chân lý và buông mình theo chân lý. Một nhận thức luận như thế tồn tại sẽ ảnh hưởng trên mọi người, và chắc chắn là ảnh hưởng sâu xa và mạnh mẽ nhất trên giới trẻ.

    Tạm kết 

    Nếu con người Việt Nam, đặc biệt là giới trẻ, đã chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực của xã hội, trong đó có phần không nhỏ của chủ trương giáo dục, thì thật ra, ta cũng phải nói là Giáo hội Việt Nam cũng liên đới trách nhiệm không nhỏ với tình trạng ấy.

    Vấn đề sâu xa mà Đức J. Ratzinger đã nói trong tác phẩm “Đức tin Kitô giáo, hôm qua và hôm nay”, có lẽ là vấn đề “ngôn ngữ thần học”.[30] Theo ngài, ngôn ngữ thần học, giáo lý của chúng ta giống như ngôn ngữ của một anh hề, và mặc dù chúng ta muốn công bố ý nghĩa thực tại, nhưng người nghe lại cứ tưởng ta đang diễn kịch…

    Giáo hội Công giáo Việt Nam chắc chắn là đã chưa giải gỡ được thách đố này, vì đó là vấn đề khó khăn của cả Giáo hội toàn cầu, nhưng điều quan trọng hơn là hình như Giáo hội Công giáo Việt Nam vẫn chưa nhận ra hoặc chưa nhìn thấy tầm quan trọng của thách đố ấy.

    Có lẽ vì chưa nhận ra được thách đố ấy nên đời sống đức Tin vẫn mang dáng vẻ đi bên lề cuộc sống thực, và chúng ta vẫn không thấy được dấu hiệu của một chiến lược để đối phó với trào lưu trần tục hoá nói chung và những thách đố nguy hiểm trong xã hội Việt Nam.

    Trong bài thuyết trình tại đại học Sorbonne năm 1999 (bài số 5), Đức Hồng y J. Ratzinger, lấy lại lập trường của thánh Âu-tinh để khẳng định bản chất của đức Tin trong truyền thống Do thái - Kitô giáo là đồng hành với các triết gia trong thứ “thần học tự nhiên” (theologia naturalis) để đi tìm ra logos đích thực của thực tại và mang lấy trách nhiệm dẫn đưa lịch sử nhân loại đến thành toàn trong nhiệm cục Cánh Chung chứ không phải là thứ “làm thần học thần bí” (theologia mythica), hoặc “làm thần học dân sự” (theologia civilis).[31] Có lẽ mỗi người giáo sĩ Việt Nam đều phải “đấm ngực” vì đã “làm thần học” không chuẩn trong kinh nghiệm đức Tin và trong lời giảng của mình, và vì thế mà Giáo hội Việt Nam cũng chưa thể trở nên lời chứng cho ơn cứu độ mang tầm mức biến đổi thực tại xã hội.

    Tác giả: Lm. Giuse Nguyễn Trọng Viễn, OP.

    Nguồn: https://hdgmvietnam.com/

     

    --------------------------

    [1] Đức Phan-xi-cô, Thông điệp Laudato Si, số139.

    [2] Gioan Phaolô II, Diễn văn tại khoa họp khoáng đại lần thứ III của Hội đồng Giam mục Châu Mỹ Latinh ở Puebla ngày 28-01-1979, trích lại trong Gioan Phaolô II, Lương Tâm Nhân Loại, bản dịch của lm. Nguyễn Hữu Thy, trang 68.

    [3] Gioan Phaolô II, Thông Điệp Đức Tin và Lý Trí, Lời chào.

    [4] Ibid, số 45.

    [5] Ibid, số 30.

    [6] Ibid, số 81.

    [7] Gioan Phaolô II, Thông điệp Đức Tin và Lý trí, số 6.

    [8] X. Henri Nouwen, Những dấu chỉ sự sống…

    [9] Ibid, số 21.

    [10] Gioan Phaolô II, Thông điệp Đức Tin và Lý trí, số 5.

    [11] Sénèque, Benef. III 22-28). Xc. Jacqueline Lagrée: Le naturalisme stoïcien. Conférence prononcée au lycée Chateaubriand de Rennes le mardi 2 octobre 2001.

    [12] X. St 1,26-27

    [13] Hiến chế Vui mừng và Hy vọng của Công đồng Vaticanô II sử dụng thuật ngữ này khi bàn về phẩm giá con người (s.12) và sách Giáo Lý Công Giáo cũng tiếp tục đường hướng ấy (ss355-361). Càng ngày Giáo hội càng thấy rõ tầm quan trọng của khẳng định này trong nhiều lãnh vực (X. Văn kiện của Ủy ban Thần học Quốc tế “Communion et Service: L’homme créé à l’image de Dieu, phát hành ngày 23/7/2004).

    [14] X. Phan Tấn Thành O.P., Đời sống tâm linh VIII, Phẩm giá con người: nhân phẩm và nhân quyền.

    [15] Eichmann ở Jerusalem – Báo cáo về sự tầm thường của cái Ác” (Eichmann in Jerusalem: A Report on the Banality of Evil

    [16] X. Bài diễn thuyết của Thượng tướng Lưu Á Châu tại căn cứ quân sự Côn Minh ngày 10/5/2010. Nghiencuuquocte.net

    [17] Henri Nouwen, Những dấu chỉ của sự sống, tr. 11-12.

    [18] Tạm nói có ba loại lịch sử: Khoa “sử học” tìm cách sắp xếp những dữ kiện trong quá khứ; “sử quan” hay triết học về lịch sử là những quan niệm triết học về diễn tiến của lịch sử nhân loại; và “sử tính” là tính lịch sử như một chiều kích căn bản của hữu thể người. Con người chỉ là mình trong sử tính, qua chính lịch sử cuộc đời mình… Cách nói “câu chuyện” là một cách trình bày về sử tính của con người và thế giới của con người.

    [19] Xc. Phần 1.3, Dáng đi đích thực của con người.

    [20] Karl Jaspers, Triết Học Nhập Môn, bản dịch của Lê Tôn Nghiêm, Nxb. Ca Dao 1974, trang 194.

    [21] Ibid, trang 194.

    [22] X. Edward N. Lorentz – Cha đẻ của Lý thuyết hỗn độn (Chaos theory). https://www.mathvn.com/2009/03/edward-n-lorentz-cha-e-cua-ly-thuyet.html

    [23] Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Đức Tin và Lý trí, số 83

    [24] Tiến sĩ triết học, Trưởng phòng Nghiên cứu Triết học Việt Nam, Viện Triết Học.

    [25] Trần Nguyên Việt, “Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của đạo đức trong nền kinh tế thị trường”. Triết Học, 5/2002, Viện Triết Học, Trung Tâm Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Quốc Gia, trang 20.

    [26] Đỗ Minh Hợp, “Siêu Hình Học: tồn tại hay không tồn tại”, Tạp chí Triết Học, Viện Triết Học, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, số 7/2002, trang 53.

    [27] Đỗ Minh Hợp, Sđd, trang 53.

    [28] Giáo sư Đỗ Duy Minh, Đại học Harvard, bài tham luận “The Way, Learning, and Politucs in classical Confucian Humanism”, tại hội nghị về “The Axial Age and its Diversity”, Hamburg, Germany, từ ngày 4 đến 8 tháng Giêng, 1983. Xc. Dương Ngọc Dũng - Lê Anh Minh, Triết giáo Đông Phương, Nxb. Đại Học Quốc Gia, Tp Hồ Chí Minh, 2003, trang 242-243. 

    [29] Luận Ngữ 15:8.

    [30] X. Joseph Ratzinger, Đức tin Kitô giáo hôm qua và hôm nay, bản dịch của Athanasio Nguyễn Quốc Lâm, NXB. Tôn Giáo Hà Nội, 2009, trang 38

    [31] X. Phan Tấn Thành, “Tuyên xưng Chân lý Kitô giáo trong một thế giới đa nguyên theo quan điểm của Đức Bênêđictô XVI”.

    Bài viết liên quan