Suy niệm Tin mừng Chúa Nhật Tuần 3 - Mùa Chay năm A (Ga 4, 5-42)

  • 11/03/2023 14:50
  • Mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.

     

    1. Bài đọc 1:  Xh 17, 3-7

    Trong những ngày ấy, dân chúng khát nước, nên phàn nàn với ông Môsê rằng: “Tại sao ông dẫn dắt chúng tôi ra khỏi Ai-cập, để cho chúng tôi cùng con cái và đoàn súc vật chúng tôi phải chết khát như vầy”. Môsê kêu lên cùng Chúa rằng: “Con sẽ phải làm gì cho dân này? Còn một chút nữa là họ ném đá con rồi”. Chúa liền phán bảo Môsê: “Ngươi hãy tiến lên, đi trước dân chúng và dẫn các bậc kỳ lão Israel đi theo, tay ngươi cầm gậy mà ngươi đã dùng mà đánh trên nước sông. Này đây, Ta sẽ đứng trước mặt ngươi, trên tảng đá Horeb, ngươi sẽ đánh lên tảng đá, từ tảng đá nước sẽ chảy ra cho dân uống”. Môsê làm các điều nói trên trước mặt các bậc kỳ lão Israel. Ông đặt tên nơi đó là “Thử Thách”, vì con cái Israel đã phàn nàn và thách thức Chúa mà rằng: “Chúa có ở với chúng tôi hay không?”

     

    2.  Đáp ca:  Tv 94, 1-2. 6-7. 8-9

    Ðáp:  Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: “Các ngươi đừng cứng lòng!”

    Xướng:

    1)  Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người!

    2)  Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người.

    3)  Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: “Ðừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta”.

     

    3. Bài đọc 2:   Rm 5, 1-2. 5-8

    Anh em thân mến, khi được đức tin công chính hoá, chúng ta được hoà thuận với Chúa nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Ðấng cho chúng ta nhờ đức tin mà tiến đến ân sủng, đứng vững ở đó, và được hiển vinh trong niềm hy vọng vinh quang của con cái Chúa. Nhưng cậy trông không làm hổ thẹn, vì lòng mến Chúa đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần là Ðấng đã được ban cho chúng ta. Ngay từ khi chúng ta còn yếu hèn, Chúa Kitô theo kỳ hẹn mà chịu chết vì chúng ta là kẻ tội lỗi. Ít có ai chết thay cho người công chính, hoạ chăng mới có người dám chết vì kẻ lành. Nhưng Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta.

     

    4.  Tin Mừng:  Ga 4,5-42 

    5 Khi ấy, Đức Giê-su đến một thành xứ Sa-ma-ri, tên là Xy-kha, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giu-se.

    6 Ở đấy, có giếng của ông Gia-cóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.

    7 Có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giê-su nói với người ấy : “Chị cho tôi xin chút nước uống !”

    8 Lúc đó, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn.

    9 Người phụ nữ Sa-ma-ri liền nói : “Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao ?” Quả thế, người Do-thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri.

    10 Đức Giê-su trả lời : “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị : ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống.”

    11 Chị ấy nói : “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống ?

    12 Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này ? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy.”

    13 Đức Giê-su trả lời : “Ai uống nước này, sẽ lại khát.

    14 Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.”

    15 Người phụ nữ nói với Đức Giê-su : “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.”

    16 Người bảo chị ấy : “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây.”

    17 Người phụ nữ đáp : “Tôi không có chồng.” Đức Giê-su bảo : “Chị nói : ‘Tôi không có chồng’ là phải, 18 vì chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng.”

    19 Người phụ nữ nói với Người : “Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ…

    20 Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này ; còn các ông lại bảo : Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa.”

    21 Đức Giê-su phán : “Này chị, hãy tin tôi : đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem.

    22 Các người thờ Đấng các người không biết ; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái.

    23 Nhưng giờ đã đến -và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế.

    24 Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.”

    25 Người phụ nữ thưa : “Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.”

    26 Đức Giê-su nói : “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.”

    27 Vừa lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế, không ai dám hỏi : “Thầy cần gì vậy ?” Hoặc “Thầy nói gì với chị ấy ?”

    28 Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta : 29 “Đến mà xem : có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao ?”

    30 Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.

    31 Trong khi đó, các môn đệ thưa với Người rằng : “Ráp-bi, xin mời Thầy dùng bữa.”

    32 Người nói với các ông : “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết.”

    33 Các môn đệ mới hỏi nhau : “Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng ?”

    34 Đức Giê-su nói với các ông : “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.

    35 Nào anh em chẳng nói : Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt ? Nhưng này, Thầy bảo anh em : Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái !

    36 Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng.

    37 Thật vậy, câu tục ngữ “kẻ này gieo, người kia gặt” quả là đúng !

    38 Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả ; còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ.”

    39 Có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đó đã tin vào Đức Giê-su, vì lời người phụ nữ làm chứng : ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm.

    40 Vậy, khi đến gặp Người, dân Sa-ma-ri xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày.

    41 Số người tin vì lời Đức Giê-su nói còn đông hơn nữa.

    42 Họ bảo người phụ nữ : “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian.”

     

    5. Suy niệm: 

    5.1  Xóa bỏ hận thù - +TGM Giuse Vũ Văn Thiên

    Thánh Gio-an là tác giả duy nhất tường thuật cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Giacóp. Trình thuật này mang nhiều ý nghĩa. Chúng ta đã biết về hình ảnh người Samari nhân hậu chăm sóc người bị nạn được ghi lại trong Tin Mừng theo Thánh Lu-ca. Hôm nay, chúng ta lại thấy một người phụ nữ Sa-ma-ri. Chị là đại diện cho những người đang đi tìm Chân lý và đang khao khát những giá trị thiêng liêng vĩnh cửu.

    Như nội dung trình thuật cho thấy, Chúa Giêsu đã chủ động “bắt chuyện” với người phụ nữ, khi chị này đến giếng để múc nước. Trong đời thường, không bao giờ một người Do Thái lại nói chuyện với một người Sa-ma-ri. Vì thế, người phụ nữ vẫn luôn giữ khoảng cách và cảnh giác. Dưới ngòi bút tài tình của tác giả Gio-an, nội dung cuộc đối thoại này diễn biến từng bước, để rồi từ bầu khí nghi ngờ trở thành sự thân thiện; từ một người bất mãn trở thành một người lạc quan; từ một người vô tín, trở thành một tín hữu; và nhất là từ một người dửng dưng, nay trở thành một nhân chứng năng động nhiệt thành giới thiệu Chúa Giêsu cho những người đồng bào.

    Qua cuộc đối thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri, Chúa Giêsu khẳng định: Thiên Chúa là Cha của mọi người. Giáo huấn này không chỉ được thể hiện trong câu chuyện người phụ nữ Sa-ma-ri, mà được dàn trải trong suốt Tin Mừng. Chúa Giêsu đến để nói với con người về dung mạo đầy lòng thương xót của Chúa Cha. Chính Người là hình ảnh sống động của Chúa Cha. Qua đời sống và sứ vụ của mình, Đức Giêsu minh chứng Chúa Cha là Đấng nhân hậu. Những ai thờ phượng Chúa, cũng phải thờ phượng trong tinh thần và Chân lý. Việc thờ phượng Chúa không bị tuỳ thuộc vào một không gian, như ở Giê-ru-sa-lem hay ở trên đồi Ga-ri-zim, nhưng bất cứ ai kêu cầu Thiên Chúa với trái tim chân thành, dù ở nơi đâu, đều được Chúa nhận lời. Sau này, thánh Phê-rô can đảm tuyên bố trong bài giảng tại nhà ông Cornêliô: “Quả thật, tôi nghiệm biết rằng Thiên Chúa không thiên tư tây vị, nhưng ở bất cứ xứ nào, ai kính sợ Người và thực hành sự công chính, đều được Người đón nhận. Thiên Chúa đã sai Lời Người đến cùng con cái Israel, loan tin bình an, nhờ Chúa Giêsu Ki-tô là Chúa muôn loài” (Cv 10,34-36). Lưu ý là ông Phê-rô tuyên bố những lời này sau khi được thấy thị kiến về một tấm khăn lớn từ trời thả xuống, trong đó có đủ mọi loài sinh vật. Đây là hình ảnh diễn tả tính phổ quát của ơn cứu độ mà Thiên Chúa thực hiện trong Đức Giêsu. Điều này ngược lại với quan niệm truyền thống của người Do Thái, vì họ cho rằng chỉ có dân riêng Chúa chọn mới được hưởng ơn cứu độ của Ngài.

    Trong Mùa Chay, phụng vụ nhắc chúng ta: Chúa Giêsu là suối nguồn ơn phúc. Bài Tin Mừng cũng chứng minh cho thấy niềm khát vọng vô biên của con người. Một xã hội phát triển và giàu có về vật chất, chưa hẳn đã là hạnh phúc. Ngoài những nhu cầu vật chất, con người còn cần đến những nhu cầu tinh thần. Người phụ nữ Sa-ma-ri đã năm đời chồng, nhưng vẫn không thấy hạnh phúc. Điều đó chứng minh sự dồi dào về vật chất và buông thả về luân lý không phải bao giờ cũng đem lại cho con người niềm vui. Chị vẫn đang trăn trở đi tìm ý nghĩa của cuộc đời. Khởi đi từ nước giếng, là nước thường dùng trong cuộc sống thường ngày, Đức Giêsu đã từng bước giúp chị hiểu nước của ân sủng, nước thiêng liêng. Đó chính là giáo huấn và ơn cứu độ mà Đức Giêsu mang đến cho nhân loại ở mọi nơi mọi thời.

    Bài đọc I kể cho chúng ta về một sự kiện liên quan đến nước. Trong cuộc lữ hành sa mạc, dân Israel đã kêu cầu Chúa, và Ngài đã làm phép lạ để nước chảy ra từ tảng đá. Nước sa mạc vừa nhắc nhở lòng thương xót của Chúa, và cũng như một kỷ niệm buồn, vì dân phản loạn kêu trách Chúa. Thiên Chúa nhân hậu bao dung. Ngài không chấp tội con người. Ngài sẵn sàng tha thứ những lỗi phạm, và sửa dạy họ, để họ nên tốt hơn.

    Những người dân thành Samari đóng vai trò “diễn viên phụ”, nhưng cũng rất quan trọng. Thánh Gioan đã viết: “Số người tin vì lời Đức Giêsu nói còn đông hơn nữa. Họ bảo người phụ nữ: Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng: Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (Ga 4, 41-42). Cuộc trò chuyện thân thiện giữa Chúa Giêsu với người phụ nữ đã đem lại những kết quả không ngờ. Qua hình ảnh mùa gặt, Đức Giêsu nói với chúng ta: xung quanh chúng ta, rất nhiều người có trái tim chân thành. Họ như những mảnh đất tốt sẵn sàng đón nhận hạt giống Lời Chúa và làm cho Lời ấy nảy mầm, đâm bông kết trái. Trình thuật của thánh Gio-an đã chứng minh điều đó.

    Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa. Người phán: “Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mê-ri-ba, như ngày ở Ma-xa trong sa mạc”. Hành trình mùa Chay nhắc lại cuộc lữ hành trong sa mạc của dân Israel tiến về đất hứa. Trong hành trình này, nhiều người đã ngã gục, vì kiêu ngạo, tội lỗi, bất trung hoặc vì thiếu nghị lực, không có lòng cậy trông. Đức Giêsu là Đấng dẫn đường về đất hứa vĩnh cửu, tức là Quê Trời. Thánh Phaolô khẳng định: theo lẽ thường, hầu như không ai chết vì người công chính, thế mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Noi gương Chúa Giêsu bên bờ giếng Gia-cóp, chúng ta hãy cố gắng thực thi những việc thiện, trân trọng và bác ái với những người xung quanh, để dỡ bỏ khoảng cách, kết nối yêu thương và xây tình huynh đệ.

    5.2  Nước - Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

    Phụng vụ lời Chúa hôm nay từ bài đọc I trích sách Xuất hành đến bài Tin Mừng đều nói về Nước, ám chỉ Nước Rửa tội. Trong thư gửi tín hữu Rôma, thánh Phaolô cũng giúp chúng ta hiểu về Bí tích Thánh Tẩy, nên Chúa nhật này có thể gọi là Chúa nhật Nước giúp chúng ta suy nghĩ về Nước trong Cựu Ước nơi Tân Ước và tại Giếng Rửa tội.

    Lộ trình tới Nước Đêm Vọng Phục Sinh

    Trong sách Nghi Thức Khai Tâm từ số 133 đến số 135 ghi: “Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay cử hành nghi thức “Ghi Danh” hay “Tuyển Chọn” các dự tòng. Các số từ 152 đến 180 ghi là : “Chúa Nhật hôm nay (tức Chúa nhật III, IV, V Mùa Chay) cử hành Nghi Thức Khảo Hạch Các Dự Tòng lần thứ nhất, lần thứ hai, lần thứ ba cho những người lớn sẽ lãnh nhận Bí Tích Khai Tâm vào đêm Vọng Phục Sinh sắp tới (Nghi Thức Khai Tâm, số 152-166). Như vậy, lộ trình phụng vụ Mùa Chay năm A từng bước dẫn đưa chúng ta sống con đường của anh chị em dự tòng đang chuẩn bị lãnh nhận bí tích Rửa Tội, làm sống dậy trong chúng ta ơn Thánh Tẩy chúng ta đã lãnh nhận.

    Giáo Hội luôn kết hợp lễ Vọng Phục Sinh với việc cử hành bí tích Rửa tội, hiện thực hóa mầu nhiệm cao cả của đời sống người kitô hữu là: chết đi cho tội lỗi, tham dự vào sự sống mới trong Chúa Kitô Phục Sinh và nhận lấy Chúa Thánh Thần, Ðấng đã cho Ðức Giêsu từ cõi chết sống lại (x. Rm 8,11). Thế nên, Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay gọi là Chúa Nhật cám dỗ. Chúa Nhật thứ hai gọi là Chúa Nhật của tổ phụ Abraham và Chúa Nhật Chúa Biến Hình. Bí Tích Rửa tội là bí tích của đức tin và thiên chức làm con Thiên Chúa: theo Abraham tin tưởng vào Chúa và ra đi để trở nên con cái Chúa. 

    Bước vào Chúa Nhật thứ ba, kể về cuộc đối thoại nổi tiếng của Ðức Giêsu với người thiếu phụ Samaria bên giếng nước cổ xưa có từ thời của tổ phụ Giacóp. Và ngày hôm ấy, chị gặp Ðức Giêsu đang ngồi trên bờ giếng, mệt mỏi sau một chặng hành trình (x. Ga 4,5-42). Chúa Giêsu chính là Nước Hằng Sống, Người làm cho con người đỡ khát, Nước Chúa Thánh Thần.

    Nước trong công trình của Chúa

    Sách Sáng Thế mô tả, Nước đã có trong công trình sáng tạo thế giới và vũ trụ muôn loài (x.St 1,1-2). Chúa đã tạo ra nước để làm cho ruộng đất phì nhiêu. Nước tưới vườn Êđen địa đàng trần gian. Nước làm cho vạn vật sinh sôi nảy nở (x.St 1, 6 – 9), cho thân xác con người được mát mẻ sạch sẽ. Chúa còn tạo ra nước như dụng cụ của lòng từ bi Chúa: Chúa đã làm cho Nước Biển Ðỏ và Nước sống Giorđan dựng lên thành tường để Dân Chúa thoát ách nô lệ và đi vào Đất Hứa. Và lời Chúa hôm nay minh chứng nhờ nước Chúa đã làm dịu cơn khát của Dân Chúa trong sa mạc (x. Xh 17,3-7); các tiên tri đã dùng hình ảnh nước mà loan báo giao ước mới Chúa sẽ thiết lập với loài người; sau hết nhờ nước mà Đức Kitô đã thánh hóa trong sông Gioađan (x. Mt 3,13-17; Mc 1,7-11; Lc 3,15-16.21-22), Chúa đã đổi mới bản tính hư hỏng của ta con trong giếng nước tái sinh.

    Chúa đã dùng Nước để sửa phạt Dân Chúa, như cho Nước lụt Đại Hồng Thủy phủ lấp toàn cõi địa cầu tội lỗi (St 7,17-24), hoặc không cho mưa rơi để dân tội lỗi ăn năn thống hối. Chúa đã dùng Nước để cứu sống khi truyền cho Môsê cầm cây gậy đập Nước Biển Ðỏ để nó rẽ ra cho Dân đi qua, rồi sau khép lại giết hết quân quốc Aicập (x. Xh 14,15-31). Trên núi Horeb, Chúa cũng bảo Môsê đập đá để Nước chảy ra cho Dân uống.

    Cây gậy Môsê cầm đập vào đá, Nước ở đá chảy ra để Dân uống cho khỏi khát nhắc cho những người uống nước hôm nay nhớ đến cây gậy Môsê cầm đập Nước Biển Ðỏ rẽ ra thành hai bên tả hữu để Dân Chúa đi qua ráo chân ngày Chúa đã giải thoát họ khỏi đất nô lệ. Vậy nếu cuộc vượt qua Biển Ðỏ thường được dùng để nói về Ơn Nước Rửa tội trong mầu nhiệm Vượt qua của Ðức Kitô, thì câu chuyện Môsê đập đá để có Nước chảy ra cho Dân uống, cũng thích hợp để đưa tâm trí chúng ta nghĩ tới Ðức Giêsu Kitô là Môsê mới sẽ ban Nước cứu sống và cứu độ cho những ai đến gần Người.

    Chúa Giêsu là Nước Hằng Sống

    Vào những thế kỷ đầu của Kitô giáo, Các Giáo phụ đã sớm nhận ra nơi “Nước Hằng Sống” biểu tưởng của phép Rửa tội, mà Đức Kitô chính là Nguồn Nước ấy. Chúa Giêsu xin người đàn bà xứ Samaria nước uống, không phải lý do khát về thể lý cho bằng khát đức tin, khát sự sống đời đời, khát một linh hồn khô héo. Đấng Cứu Thế giả vờ khát nước đến xin người đàn bà nước để trao ban thứ nước ân sủng khỏi khát đời đời. Đó chính là nguồn nước mà Tin Mừng nói tới khi Người xin nước của người đàn bà xứ Samaria… Thực ra, nguồn nước ấy không bao giờ cạn, Đấng là Nước Hằng Sống không thể uống nước bị ô nhiễm ở vùng đất này.

    Đức Kitô, Đấng ngồi nghỉ trên miệng giếng chính là Nguồn Nước, từ cạnh sườn bên phải Người, tuôn trào dòng nước xót thương; một phụ nữ có sáu đời chồng đã được tẩy sạch bằng dòng Nước Hằng Sống ấy. Một người phụ đến giếng Samaria kín nước, bà lấy nước từ dòng Nước Giêsu! Tìm được Nước, bà ra đi với sự tiết hạnh. Ngay lập tức bà xưng thú các lỗi mà Chúa Giêsu ám chỉ, bà nhận ra Đức Kitô và loan báo Đấng Cứu Thế. Bà để vò nước xuống, mang ơn sủng vào thành; vai nhẹ bớt, bà trở về tràn đầy sự thánh thiện… Đúng là ai đến trong tội lỗi sẽ trở về với sứ mạng tiên tri.

    Nước hằng sống này đối với chúng ta là nguồn suối dâng trào sự sống đời đời, nước này là nước hòa với Máu Chúa Kitô, đã chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu trên cây Thánh giá. Nước tuôn chảy từ tảng đá do Môsê đập ra (Xh 17, 3-7) là hình ảnh tiên trưng của Nước chảy ra từ cạnh sườn Đấng Cứu Thế bị đóng đinh.

    Lạy Chúa Giê-su, xin ban cho chúng con chính Chúa là Nước Hằng Sống, để chúng con khỏi còn khát Nước Chúa ơi.

    Nguồn tin:  https://www.tonggiaophanhanoi.org/

    Bài viết liên quan