Di sản của Thánh Đa Minh: Một lối tiếp cận dân chủ đối với việc quản trị [i]

  • 08/10/2025 15:14
  • Di sản của Thánh Đa Minh: Một lối tiếp cận dân chủ đối với việc quản trị.

    Tổng hội Krakow, Ba Lan

     

    Tổng hội 2004 Krakow, Ba Lan

    Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với quý xơ Judith Lawson, O.P, và xơ Julianna Drobik, O.P, cùng Ban cố vấn đào tạo Đa Minh đã mời tôi phát biểu hôm nay. Tôi cũng xin gửi lời chào đến tất cả quý vị đang tham gia việc quản trị các trường học của Dòng Đa Minh. Đồng thời, tôi cũng xin gửi lời chào đến các vị Bề trên Giám tỉnh của các chị em miền Bắc Adelaide và các anh em Đa Minh.

    Đề tài hôm nay của tôi là: Di sản của Thánh Đa Minh: Một lối tiếp cận dân chủ đối với việc quản trị. Vì hội thảo này được tổ chức dưới sự bảo trợ của Ban cố vấn đào tạo Đa Minh, nên tôi hiểu rằng những điều tôi chia sẻ hôm nay sẽ góp phần giúp quý vị suy tư và thảo luận về đặc sủng Đa Minh và việc quản trị trường học theo linh đạo Đa Minh.

    Trang web của các chị em Đa Minh ở miền Đông Úc và Quần đảo Solomon cho biết rằng: “Kể từ năm 1988, Hội Dòng đã từng bước trao phó việc lãnh đạo và điều hành các trường học của mình cho các giáo dân, thông qua việc thành lập các Hội đồng Quản trị có tư cách pháp nhân và bổ nhiệm các hiệu trưởng là những người giáo dân. Hội Dòng vẫn tiếp tục thi hành vai trò giám hộ theo giáo luật và duy trì mối cộng tác trong việc quản trị các trường học của mình”.

    Hiện tại, tôi đang tham gia một nhóm công tác của Hội đồng Giám mục Công giáo Úc về các pháp nhân công quyền, một nhóm khác của Catholic Health Australia về các nguyên tắc quản trị cho những mục vụ y tế Công giáo, và tôi cũng đang giữ vai trò Chủ tịch Ủy ban Giáo dục Công giáo bang New South Wales trong một giai đoạn chuyển tiếp về mô hình quản trị và đại diện của các trường học thuộc Hội Dòng trong tiểu bang này. Vì thế, ít nhất tôi cũng ý thức được về “thế giới mới” trong việc quản trị trường học đang dần hình thành, khi các Hội Dòng trao lại quyền sở hữu, quản trị và điều hành cho những người khác. Tôi chỉ có thể nói rằng: tôi rất biết ơn vì hôm nay được giao một đề tài mang nhiều tính lịch sử và tâm linh!

    Như quý vị đã biết, chúng ta đang kỷ niệm 800 năm thành lập Dòng Đa Minh. Gần đây, có người nói với tôi: “Anh biết điều tôi thấy thật phi thường nơi Dòng Đa Minh là gì không? Đó là sau 800 năm hiện diện trên hầu hết các quốc gia, anh chị em vẫn chưa phân ly thành nhiều nhánh khác nhau, kiểu như Dòng cải cách và Dòng không cải cách, Dòng chân đất và Dòng có tu phục, Dòng truyền thống và các nhánh Viện tu khác nhau, nhưng Dòng vẫn duy trì là một Dòng duy nhất. Chắc hẳn điều này phải liên quan đến cách thức Dòng của anh được tổ chức và điều hành”.

    Tôi thầm nghĩ: Hmm… nhưng thật ra Dòng của chúng ta được vận hành như thế nào? Có ai thật sự biết rõ không?

    Tôi chắc rằng các vị Bề trên Tổng quyền, các chị Tổng quyền, các Giám tỉnh và các Bề trên cộng đoàn địa phương chưa kể đến các chị em, anh em tu sĩ và anh chị em Huynh đoàn Đa Minh hẳn sẽ có nhiều câu trả lời thú vị cho câu hỏi này. Riêng tôi thì cho rằng: “Sở dĩ Dòng vận hành được như thế đó là nhờ vào di sản “dân chủ” hay “tính cộng đoàn” mà chúng ta kế thừa từ thánh Tổ phụ Đa Minh”.

    Những bài học từ nền dân chủ cổ điển

    Những anh em Đa Minh được biết đến là những người thường đưa ra những tuyên bố có phần khoa trương, và tôi từng nghe có người nói rằng chính chúng tôi đã phát minh ra nền dân chủ kiểu Westminster và Washington! Dĩ nhiên, trên thực tế, nền dân chủ không khởi nguồn từ Thánh Đa Minh, và thậm chí cũng không phải là một phát minh của riêng Kitô giáo.

    Đối với nền tảng dân chủ phương Tây, ta phải quay về với các thành bang Athen thời kỳ cổ điển, khoảng 450 năm trước Công nguyên (Tcn). Vị lãnh đạo Pericles đã có một bài diễn văn tại lễ tang của những người lính đã hy sinh trong cuộc chiến chống lại người Sparta. Trong bài diễn văn ấy, ông trình bày một số nguyên lý của nền dân chủ. Pericles phát biểu rằng ông muốn trình bày về “hiến pháp và lề lối đã làm nên sự vĩ đại của chúng ta” (Thucydides, Cuộc chiến Peloponnesus, II:36). Ông nêu lên năm điểm mà ngày nay ta vẫn dễ dàng nhận ra như là những đặc trưng cốt yếu của nền dân chủ:

    1.“Hiến pháp của chúng ta được gọi là dân chủ bởi vì quyền lực không nằm trong tay thiểu số mà thuộc về toàn thể mọi người dân” (PW II:37);

    2.“Người Athen chúng ta luôn đưa các vấn đề chính sách ra thảo luận một cách phù hợp… điều tệ hại nhất là hành động hấp tấp mà chưa xem xét hậu quả thật kỹ lưỡng” (PW II:40);

    3.“Chúng ta vâng phục những người mà chính chúng ta đã đặt họ vào vị trí cầm quyền” (PW II:37);

    4.“Đời sống chính trị của chúng ta tự do và cởi mở như thế nào thì đời sống thường nhật trong tương quan với nhau cũng phải như vậy” (PW II:37);

    5.“Chúng ta không nói rằng người không quan tâm đến chính trị là người đang lo những chuyện riêng của mình; chúng ta nói rằng người đó hoàn toàn không xứng đáng thuộc về cộng đồng này” (PW II:40).

    Áp dụng vào Dòng Đa Minh

    Thánh Tôma Aquinô đã bàn rất nhiều về vấn đề dân chủ (ví dụ như trong Scriptum Super Sententiis II; De regimine principiumVề việc cai trị của các bậc quân vương), hoặc trong Thư gửi Vua xứ CyprusTổng luận Thần học I, 96 (Chính quyền); Ia IIæ 90-97; IIa IIæ 10-12, 42, 57, 104). Là một tu sĩ Đa Minh thuộc thế hệ thứ hai, chắc chắn ngài chịu ảnh hưởng bởi mô hình quản trị của Dòng.

    Dù thánh Đa Minh và thánh Tôma sống trong một xã hội phong kiến trật tự thứ bậc chặt chẽ và gia đình của các ngài cũng thuộc về tầng lớp có địa vị, thời đại của các ngài cũng là thời kỳ xuất hiện các nhà nước-thành phố (city-state), các tầng lớp trung lưu đô thị đang định hình, và các Dòng tu mới với những ý tưởng táo bạo bắt đầu xuất hiện, phá vỡ những hình thức thứ bậc và tính ổn định cũ.

    Cha William Hinnebusch, O.P, sử gia thuộc Dòng Đa Minh đã nhận xét, đó là một thời kỳ thử nghiệm, với “việc áp dụng những quy trình của hình thức chính trị đại diện vào cách vận hành của nhà nước và chính quyền thành phố, bên cạnh đó là sự bùng nổ của các hội đoàn mang tính tự nguyện ở địa phương, như công hội, tổ chức bác ái, hội lòng sùng kính, và các trường đại học. Tất cả đều vận hành theo hình thức bầu cử và đại diện”. (W.A. Hinnebusch, Dòng Đa Minh: Một lịch sử ngắn).

    Tuy nhiên, nhìn chung, Giáo hội thời ấy không theo đuổi hình thức quản trị phân quyền như vậy. Trong công trình sử học của mình, cha Pierre Mandonet, O.P đã nhấn mạnh tính mới mẻ trong hệ thống quản trị của Thánh Đa Minh. Trong khi người quản lý các đan sĩ và kinh sĩ thời Trung đại là các Bề trên “nắm giữ toàn bộ quyền hành và thi hành quyền ấy một cách vĩnh viễn mà không gặp phải bất kỳ sự kiểm soát nào, và những người dưới quyền thì không bao giờ được tham dự vào việc thực thi quyền ấy”, thì Dòng Giảng Thuyết gồm những người có học thức lại “tự quản trị qua những thành viên được tạm thời chọn ra từ chính hàng ngũ của mình. Mỗi tu sĩ đều được trao quyền một cách hợp pháp, và mỗi cá nhân đều sở hữu trọn vẹn các quyền của mình: trong cơ cấu đời sống của Dòng, mỗi tu sĩ giảng thuyết luôn là một cử tri”. (Pierre Mandonet, St Dominic and His Work).

    Vì vậy, Thánh Tôma đã sống trong một môi trường theo kiểu cộng đoàn và có cấu trúc phân tầng trong chính Dòng của ngài, và phần nào đó là trong bối cảnh xã hội thời bấy giờ, một môi trường vừa mang tính quyền uy nhưng lại rất tự do theo cách đặc biệt. Ngài cũng thấm nhuần các trước tác của những nhà tư tưởng Cổ đại và tiếp nhận từ họ quan niệm rằng con người là zoon politikon, nghĩa là một “sinh vật chính trị-xã hội”, có xu hướng tự nhiên hướng đến những mối tương quan kể cả mối tương quan chính trị. “Con người, bởi bản tính của mình, là một sinh vật chính trị và xã hội. Thậm chí, còn hơn các loài vật khác, con người sống trong những nhóm [tức có tính hợp quần]” (De regimine principium, 1). Tư tưởng chủ đạo ở đây là: cộng đoàn là một nơi thiện hảo nền tảng đối với con người, là yếu tố cấu thành nên sự thịnh vượng hay triển nở (flourishing) của con người. Cộng đoàn cũng là phương tiện để đạt được những sự thiện hảo khác như: sự sống và an toàn, sức khỏe và dưỡng nuôi, ngôn ngữ và giáo dục, v.v. Tuy nhiên, nếu thiếu quyền bính, cộng đoàn sẽ sụp đổ: ta cần một ai đó bảo đảm cho sự hợp tác hài hòa, bảo vệ sự an toàn, tổ chức các dự án quy mô lớn, và mang lại cho cộng đoàn căn tính và định hướng.

    Thánh Augustinô và các nhà tân bảo thủ hiện đại cho rằng việc quản trị là một điều xấu dữ.Tuy nhiên nó là điều xấu cần thiết, vì nó phản ánh thực trạng rằng chúng ta là những con người sa ngã, cần đến kỷ luật áp đặt từ bên ngoài. Trái lại, Thánh Tôma Aquinô cho rằng quản trị là một thiện ích tích cực và cần thiết thậm chí trong trường hợp không có kẻ làm điều xấu, mà chỉ đơn giản là con người với khí chất, mục tiêu và năng lực khác nhau cần được cộng tác với nhau một cách hài hòa (Tổng luận Thần học I, 96, iv). Do đó, các anh em Đa Minh thời kỳ đầu chắc chắn không phải là những người phản kháng quyền uy như kiểu “hippies”: Những anh em Đa Minh này tin tưởng vào quyền uy, hiến pháp, và sự vâng phục, nhưng họ nhìn nhận những điều ấy như những phương tiện phục vụ hạnh phúc con người, chứ không phải là những hình thức gò bó.

    Vậy thì, loại hình quản trị nào?

    Việc nói rằng ta ủng hộ một hình thức quản trị nào đó thì cũng dễ thôi nhưng cụ thể là loại quản trị nào? Thánh Tôma dạy rằng “Có ba yêu cầu cho đời sống tốt đẹp của một nhóm xã hội: Thứ nhất, cộng đoàn ấy phải được hiệp nhất trong bình an. Thứ hai, cộng đoàn ấy phải được định hướng để làm những việc tốt lành… Thứ ba, cộng đoàn ấy phải bảo đảm có đủ những điều kiện cần thiết cho đời sống tốt đẹp”. (De regimine principium 15). Theo cách hiểu của Dòng Đa Minh thời kỳ đầu, vai trò của người lãnh đạo là hướng dẫn mọi người theo cách thích hợp để đạt đến sự tốt/thiện cá nhân và sự tốt/thiện chung. Việc quản trị sẽ trở nên thành công khi nó đạt được mục tiêu này theo cách trọn vẹn hơn. Hình thức quản trị tốt nhất sẽ là hình thức nuôi dưỡng nhân đức và cơ hội phát triển cho các thành viên, đưa họ đến hạnh phúc đích thực ngay ở đời này và hạnh phúc vĩnh cửu ở đời sau, chứ không chỉ phục vụ lợi ích cá nhân của người cầm quyền hoặc một nhóm lợi ích nào đó.

    Vì vậy, Thánh Tôma không phải là người ủng hộ mô hình “nhà nước tối giản” theo tinh thần tự do thị trường. Đối với ngài, quản trị tốt không chỉ là duy trì trật tự, để người dân tự do theo đuổi những dự phóng và thỏa thuận riêng tư; việc quản trị tốt mang lại những điều kiện cần thiết cho sự phát triển toàn diện của mọi người, bao gồm những nhu cầu cơ bản về thể chất, tình cảm, đạo đức và đời sống tâm linh.

    Cũng như phần lớn các nhà tư tưởng Trung đại, Thánh Tôma cho rằng điều hiển nhiên là phải có một người đứng đầu được giao trọng trách điều hành. Đó là người có khả năng thúc đẩy sự hiệp nhất, bình an và định hướng tốt hơn so với một tập thể hay một hội đồng. Ngài nhận thấy điều đó cũng được phản ánh trong trật tự tự nhiên, ví dụ trong mỗi tổ ong luôn có một “con ong chúa”. (Dù ngài không biết rằng thật ra đó là con ong chúa!). Tuy ngày nay có nhiều mô hình lãnh đạo hiện đại như lãnh đạo luân phiên, lãnh đạo đối thoại, lãnh đạo đồng thuận, hay lãnh đạo không xác định danh tính, mà trên thực tế, đôi khi lại có nghĩa là bị thao túng bởi một người không được bổ nhiệm, nhưng Thánh Tôma hẳn sẽ hoài nghi về hiệu quả của những mô hình quản trị chỉ có tiến trình mà không đưa ra được quyết định nào.

    Tuy nhiên, cũng chính vì hình thức lãnh đạo tập trung là hiệu quả nhất trong việc đạt tới điều tốt/thiện, nên nó cũng hiệu quả nhất trong việc đạt tới điều xấu ác (điều mà ta gọi là chuyên chế). Cũng vậy, Thánh Tôma nhận xét rằng: càng phân tán quyền lực, chính quyền càng trở nên kém hiệu quả, dù trong việc làm điều tốt hay điều xấu. Những ai nghĩ rằng, việc quản trị do những người yếu đuối thực hiện dễ dẫn đến sai lầm, hẳn sẽ tập trung vào những hiểm họa của chế độ độc tài, và tìm cách phân tán quyền lực càng rộng càng tốt. Trái lại, những người có tinh thần lạc quan hơn hoặc chú trọng đến hiệu quả hơn hẳn sẽ ưa chuộng một mô hình độc tài nhân hậu (benign dictatorship), vì tính hiệu quả mà nó mang lại. Thật thú vị là, Dòng Đa Minh đã lựa chọn một hình thức phân quyền dân chủ, trong khi anh em Dòng Tên và các Dòng tu nối bước họ lại chọn một mô hình mang nhiều tính quân đội, với quyền lực tập trung cao độ hơn nhiều. Nếu trích lời thủ tướng Anh Winston Churchill, người Đa Minh hẳn sẽ nói rằng: “Dân chủ là hình thức chính quyền tồi tệ nhất, ngoại trừ tất cả những hình thức khác”.

    Whigs?

    Vậy thì, họ có phải là những người theo phái Whig (tức là các nhà tự do chủ nghĩa sơ khai) không? Thánh Tôma Aquinô ủng hộ chính quyền lập hiến, trong đó quyền lực của người lãnh đạo bị giới hạn bởi luật tự nhiên và thiên luật, đồng thời bị kiểm soát bởi ban cố vấn, hội đồng và các cơ chế đối trọng khác (ví dụ: Tổng luận Thần học Ia IIæ, 90, iii; 97, iii). Chính vì thế, sử gia Lord Acton đã từng đưa ra một tuyên bố nổi tiếng rằng Thánh Tôma và Dòng Đa Minh là những “Whigs” hay những người tự do đầu tiên; điều đó có phần đúng, nhưng chỉ đúng một phần. Bởi vì, có rất nhiều yếu tố trong chủ nghĩa tự do thời Khai minh mà các tu sĩ thời Trung đại hẳn sẽ khó lòng mà chấp nhận. Việc quản trị trong Dòng Đa Minh thời kỳ đầu hoàn toàn không phải để chạy theo xu hướng hay để thăm dò dư luận, mà để tìm kiếm, bước theo Đức Kitô, và Hội Thánh của Ngài, đồng thời giải phóng và hướng dẫn các tu sĩ sống trọn vẹn sứ mạng tông đồ.

    Theo gương Đức Kitô, “Đấng luôn vâng phục Chúa Cha vì sự sống của thế gian” (LCO 18.1), họ khấn vâng phục. Hình thức quản trị của họ mang bản chất Giáo Hội, được thực thi trong sự vâng phục và phục vụ Hội Thánh. Lời khấn duy nhất mà họ tuyên xưng là lời khấn vâng phục, trong lời khấn đó bao gồm việc vâng phục Đức Kitô, Đức Maria, Hội Thánh và Tin Mừng của Ngài, cũng như Thánh Đa Minh, các vị kế nhiệm và luật Dòng. Là người sống đời thánh hiến, họ vâng phục các bề trên của mình. Các bề trên ấy, đến lượt mình, phục vụ sự tốt/thiện chung bằng cách thi hành quyền bính để bảo vệ đời sống tu trì và đời sống tông đồ của cộng đoàn. Nếu không có sự liên đới với Hội Thánh, với con người, dù là Giám mục hay các vị Giám tỉnh, thì vai trò lãnh đạo của họ sẽ đánh mất căn tính và sứ mạng, và vì thế, quyền bính của họ cũng sẽ không còn hiệu lực, việc rao giảng của họ cũng sẽ không còn sinh hoa trái.

    Chắc chắn, Dòng Đa Minh là một Dòng có phẩm trật và nhấn mạnh sự vâng phục. Nhưng cũng rất dân chủ, nếu xét theo tiêu chuẩn của thời đại các ngài: họ bỏ phiếu kín bằng phiếu đen và phiếu trắng, tự bầu ra các Bề trên cộng đoàn địa phương, rồi các vị này bầu ra Giám tỉnh, và các Giám tỉnh lại bầu ra Bề trên Tổng quyền – tất cả đều có nhiệm kỳ; mọi tiến trình đều được hướng dẫn bởi Tổng hội, ban cố vấn, hiến pháp và chương trình lập pháp rõ ràng. Tình huynh đệ giữa các tu viện được phản ánh trong “sự hiệp thông giữa các tu viện tạo thành một Tỉnh dòng”, và “sự hiệp thông giữa các Tỉnh dòng tạo thành toàn Dòng” (Hiến pháp và Quy định của Dòng Anh Em Giảng Thuyết I.VII).

    Tài sản và rất nhiều quyết định quan trọng đã và đang giao cho cấp địa phương, chứ không chỉ tập trung ở trung ương. Hiến pháp nền tảng của Dòng giải thích rằng tất cả điều này nhằm bảo đảm: “sự tham gia một cách có tổ chức và cân bằng giữa mọi thành viên vào việc theo đuổi mục đích đặc thù của Dòng”, trong đó quyền tự trị và quyền bính được phân phối hài hòa. Các Tổng hội và ủy ban ở mỗi cấp sẽ thảo luận các vấn đề nhiều khi rất dài dòng trước khi đưa ra quyết định hoặc giao phó trách nhiệm cho ai đó.

    Chính xu hướng “nói, nói và nói cho đến ngọn ngành” ấy lại giúp mọi người cảm thấy mình là chủ thể của quyết định, và thường thì điều đó làm tăng tính cẩn trọng và khôn ngoan trong các quyết định. Tuy vậy, như một vị cựu Bề trên Tổng quyền là cha Timothy Radcliffe, O.P [nay là Đức Hồng Y Timothy Radcliffe] đã viết trong bức thư năm 1997 có nhan đề Tự do và Trách nhiệm Đa Minh: Hướng đến một linh đạo của quản trị, hình thức quản trị cộng đoàn, hội họp, tham vấn bất tận này có nghĩa là: “Chúng ta sẽ không bao giờ là một trong những Dòng tu hiệu quả nhất trong Hội Thánh”.

    Tuy nhiên, sự kém hiệu quả ấy là cái giá có thể chấp nhận được cho linh đạo quản trị Đa Minh. Và phần lớn của cấu trúc cách quản trị này đã được các anh em và các nữ tu Đa Minh mang theo đến tận những nơi xa xôi như Westminster và Washington, nơi tinh thần đó thực sự đã để lại ảnh hưởng sâu đậm lên các tín hữu địa phương.

    Lời khuyên dành cho những ai đảm nhận vai trò lãnh đạo

    Tại sao, ngoài tham vọng mù quáng hay sự vâng phục ngây thơ, ai đó sẽ đảm trách vai trò quản trị? Thánh Tôma Aquinô cho rằng quản trị là một hoạt động cao quý, vốn nên hấp dẫn hoặc ít nhất cũng nên được đón nhận bởi những người có những đặc sủng đặc biệt. Theo ngài, những người đảm nhận trách nhiệm lãnh đạo đang thực hiện một công việc vô cùng hợp lý (xét theo tất cả những lý do đã được trình bày ở trên); nếu họ quản trị tốt, họ sẽ đạt được sự trưởng thành về tính cách, chiếm được tình thương và sự kính trọng của những người họ lãnh đạo, và được ghi nhớ vinh hiển nơi trần thế; và, như bất kỳ ơn gọi đích thực nào, đó sẽ là con đường đưa họ đến Thiên đàng. Trái lại, người lãnh đạo tồi chỉ đạt được vinh dự phù du do đám đông bất nhất ban tặng, với phần thưởng chỉ là khoái lạc chóng qua, cùng với biết bao lo lắng ngay ở đời này, và những hình phạt còn tệ hơn ở đời sau!

    Nghệ thuật tôn giáo thời Trung đại, như trong các bức tranh của chân phước Fra Angelico, một người anh em Đa Minh luôn khắc họa những vầng hào quang của các vị vua, bên cạnh các tu sĩ cắt tóc[ii], nữ tu đội lúp, và các Giám mục đội mũ mitra xuất hiện cả trong đoàn ngũ các thánh trên thiên đàng, lẫn trong vạc dầu của hỏa ngục!

    Vì thế, Dòng Đa Minh không phải là nơi phát minh ra hình thức quản trị dân chủ, nhưng chắc chắn Dòng đã định hình nó theo một cách riêng, và tôi dám nói rằng nó mang lại một linh đạo.

    Cha Hinnebusch nhận xét rằng từ rất sớm, ngay từ năm 1221, cơ cấu quản trị của Dòng đã bao hàm các nguyên tắc: “tình liên đới huynh đệ (collegiality), phân quyền hợp lý (subsidiarity), sự đại diện và trách nhiệm giải trình”, cùng với sự sẵn lòng để vận dụng và sử dụng nguồn “khôn ngoan, kinh nghiệm và các ý tưởng từ nhiều thành phần anh em để phục vụ lợi ích của tỉnh Dòng, toàn Dòng và Hội Thánh”.

    Vì thế, trong Chúa Kitô và Thánh Đa Minh, nền dân chủ được cải biến. Xin cho tôi nêu một ví dụ cụ thể:

    Hiện tại, cả đất nước chúng ta lẫn Dòng chúng ta đều đang chuẩn bị cho sự kiện mang tính dân chủ nhất: một cuộc bầu cử. Nhưng điều khác biệt giữa bầu cử thế tục và Tổng hội Đa Minh là: dân chủ Đa Minh không nhằm để bên này thắng và bên kia thua, càng không phải để người này thắng và người khác thua. Dân chủ Đa Minh là để phục vụ sứ vụ – tìm kiếm Chân lý và rao giảng Lời Chúa.

    Như cha Timothy đã nhận định: “Nền dân chủ của chúng ta chỉ thật sự là dân chủ Đa Minh, nếu cuộc tranh luận và bỏ phiếu của chúng ta là nỗ lực để lắng nghe Lời Thiên Chúa mời gọi ta bước đi trên con đường môn đệ” và cố gắng lắng nghe nhau như những tiếng nói mang một hạt chân lý, dù nhỏ nhất. Hình thức quản trị cộng đoàn này phải dẫn đến hiệp nhất vì sứ vụ, chứ không khiến chúng ta trở thành đối thủ hay tù nhân của nhau.

    Năm 1963, một bài hát do nữ tu Đa Minh người Bỉ, Jeanne Deckers sáng tác, đã trở nên phổ biến khắp nơi. Một bộ phim về câu chuyện bi thương của chị vừa mới ra mắt. Chúa Nhật tuần vừa rồi, khi cùng các anh em và giáo dân giáo xứ Carina mừng lễ Thánh Đa Minh, tôi rất vui khi được nghe hát bài Dominique, nique, nique. Đó là bài hát về Thánh Đa Minh, và đã từng xếp thứ 5 trên bảng xếp hạng đĩa đơn tại Úc vào năm 1963! Bản dịch tiếng Anh phần điệp khúc như sau:

    Kìa nhìn xem Cha Thánh Đa Minh đơn sơ ra đi

    Một người bộ hành hát xướng nghèo nàn vẫn vui

    Vào từng nơi đi qua các dân

    Cha loan truyền về Chúa nhân hiền

    Ngài chỉ nói đến cha Nhân hiền mà thôi.

    Những ca từ này diễn tả tinh thần tự do của cha Đa Minh, một lòng một ý chuyên tâm cho sứ vụ. Nếu với Pericles và người Athens, nền dân chủ giúp họ được tự do khỏi ách đô hộ của người Sparta, thì với chúng ta những người đã chịu Phép Rửa trong Đức Kitô, và theo một cách nào đó, đã thuộc về gia đình Đa Minh dân chủ không chỉ trao ban tự do khỏi, mà còn trao ban tự do để: tự do loan truyền, trên mọi nẻo đường, ở khắp mọi nơi, về một Thiên Chúa nhân hiền.

    Đức Tổng Giám mục Anthony Fisher, O.P., - Tổng Giám mục Giáo phận Sydney

    Lm. Micae Trần Văn Thành, O.P chuyển ngữ

    Nguồn tin: https://daminhvn.net/

     

    [i] Diễn văn Khai mạc của Đức Tổng Giám mục Anthony Fisher, O.P  tại Hội thảo về Quản trị Dòng Đa Minh tại Tu viện Rosary Lodge, Strathfield, ngày 13 tháng 8 năm 2010

    .[ii] Crown tonsure: Một kiểu cạo tóc vòng trên đỉnh đầu của tu sĩ và giáo sĩ, nhằm biểu lộ sự từ bỏ thế gian và dâng hiến cho Thiên Chúa. Trước công đồng Vatican II, các giáo sĩ gồm 7 cấp bậc, bắt đầu với chức cắt tóc.

    Bài viết liên quan