Suy niệm Tin mừng Chúa Nhật Tuần 4 - Mùa Chay năm A (Ga 9, 1-41)

  • 18/03/2023 14:51
  • Anh mù đến rửa ở hồ Si-lô-ác và khi về thì nhìn thấy được.

    Chúa nhật 4 mùa Chay năm A (Ga 9,1-41)

     

    1. Bài đọc 1:  Sm 16, 1b. 6-7. 10-13a

    Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Samuel rằng: “Hãy đổ dầu cho đầy bình và lên đường. Ta sai ngươi đến nhà Isai dân thành Bêlem, vì Ta chọn một người con của ông ấy lên làm vua”.

    Khi (họ) vào nhà, Samuel gặp ngay Eliab và nói: “Có phải người xức dầu của Chúa đang ở trước mặt Chúa đây không?” Và Chúa phán cùng Samuel: “Ðừng nhìn xem diện mạo, vóc cao, vì Ta đã loại nó rồi. Ta không xem xét theo kiểu của con người, vì chưng con người nhìn xem bên ngoài, còn Thiên Chúa thì nhìn xem tâm hồn”. Isai lần lượt đem bảy đứa con mình ra trình diện với Samuel. Samuel nói với Isai: “Chúa không chọn ai trong những người này”. Samuel nói tiếp: “Tất cả con ông có bấy nhiêu đó phải không?” Isai đáp: “Còn một đứa út nữa, nó đi chăn chiên”. Samuel nói với Isai: “Ông hãy sai người đi gọi nó về, vì chúng ta không ngồi vào bàn ăn trước khi nó về”. Isai sai người đi tìm đứa con út. Ðứa út này có mái tóc hoe, có đôi mắt xinh và gương mặt đẹp. Chúa phán: “Ngươi hãy chỗi dậy, xức dầu lên nó, vì chính nó đó”. Samuel lấy bình dầu ra, xức lên nó trước mặt các anh em, và Thánh Thần Chúa ngự trong Ðavít từ ngày đó trở đi.

     

    2.  Đáp ca:   Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6

    Ðáp:  Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi.

    Xướng:

    1)  Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.

    2)  Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. – Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con.

    3)  Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.

    4)  Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài.

     

    3. Bài đọc 2:  Ep 5, 8-14

    Anh em thân mến, xưa kia anh em là sự tối tăm, nhưng bây giờ, anh em là sự sáng trong Chúa. Anh em hãy ăn ở như con của sự sáng, bởi vì hoa trái của sự sáng ở tại tất cả những gì là tốt lành, là công chính và chân thật. Anh em hãy nhận biết điều gì làm đẹp lòng Chúa, và đừng thông phần vào những việc con cái tối tăm không sinh lợi ích gì, nhưng phải tố cáo thì hơn. Vì chưng, việc chúng làm cách thầm kín, dầu có nói ra cũng phải hổ thẹn. Nhưng tất cả những việc người ta tố cáo, thì nhờ sự sáng mà được tỏ bày ra; vì mọi việc được tỏ bày, đều là sự sáng. Bởi thế, thiên hạ nói: “Hỡi kẻ đang ngủ, hãy thức dậy, hãy vùng dậy ra khỏi cõi chết, và Chúa Kitô sẽ chiếu sáng trên ngươi”.

     

    4.  Tin Mừng:  Ga 9, 1-41 

    1 Khi ấy, ra khỏi Đền Thờ, Đức Giê-su nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh.

    2 Các môn đệ hỏi Người: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”

    3 Đức Giê-su trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.

    4 Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được.

    5 Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.”

    6 Nói xong, Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, 7 rồi bảo anh ta: “Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa” (Si-lô-ác có nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được.

    8 Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: “Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?”

    9 Có người nói: “Chính hắn đó!” Kẻ khác lại rằng: “Không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi!” Còn anh ta thì quả quyết: “Chính tôi đây!”

    10 Người ta liền hỏi anh: “Vậy, làm sao mắt anh lại mở ra được như thế?”

    11 Anh ta trả lời: “Người tên là Giê-su đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: ‘Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa.’ Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy.”

    12 Họ lại hỏi anh: “Ông ấy ở đâu?” Anh ta đáp: “Tôi không biết.”

    13 Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pha-ri-sêu.

    14 Nhưng ngày Đức Giê-su trộn chút bùn và làm cho mắt anh ta mở ra lại là ngày sa-bát.

    15 Vậy, các người Pha-ri-sêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy.”

    16 Trong nhóm Pha-ri-sêu, người thì nói: “Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát”; kẻ thì bảo: “Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?” Thế là họ đâm ra chia rẽ.

    17 Họ lại hỏi người mù: “Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?” Anh đáp: “Người là một vị ngôn sứ!”

    18 Người Do-thái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. 19 Họ hỏi: “Anh này có phải là con ông bà không? Ông bà nói là anh bị mù từ khi mới sinh, vậy sao bây giờ anh lại nhìn thấy được?”

    20 Cha mẹ anh đáp: “Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh.

    21 Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó; nó đã khôn lớn rồi, nó có thể tự khai được.”

    22 Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Do-thái. Thật vậy, người Do-thái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô.

    23 Vì thế, cha mẹ anh mới nói: “Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó.”

    24 Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi.”

    25 Anh ta đáp: “Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!”

    26 Họ mới nói với anh: “Ông ấy đã làm gì cho anh? Ông ấy đã mở mắt cho anh thế nào?”

    27 Anh trả lời: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao các ông còn muốn nghe lại chuyện đó nữa? Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng?”

    28 Họ liền mắng nhiếc anh: “Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê.

    29 Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông Giê-su ấy bởi đâu mà đến.”

    30 Anh đáp: “Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi!

    31 Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy.

    32 Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh.

    33 Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì.”

    34 Họ đối lại: “Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” Rồi họ trục xuất anh.

    35 Đức Giê-su nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi: “Anh có tin vào Con Người không?”

    36 Anh đáp: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?”

    37 Đức Giê-su trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây.”

    38 Anh nói: “Thưa Ngài, tôi tin.” Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người.

    39 Đức Giê-su nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!”

    40 Những người Pha-ri-sêu đang ở đó với Đức Giê-su nghe vậy, liền lên tiếng: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?”

    41 Đức Giê-su bảo họ: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘Chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn!”

     

    5. Suy niệm:  Mù và sáng

     

    “Thế giới của người mù rất nhỏ bé, như một cái chum”. Đó là tâm sự của một người phụ nữ bị bệnh và hoá mù ở tuổi 30. Quả vậy, trong bóng tối đặc quánh vì đôi mắt bị che phủ, người mù chỉ cảm nhận bằng đôi tay, qua những gì có thể sờ thấy. Tuy vậy, cuộc sống của người mù “chỉ bất tiện mà không bất hạnh”. Có nhiều người mù đôi mắt nhưng lại có những khả năng phi thường. Có những người mù là nghệ sĩ dương cầm, chuyên viên ẩm thực, thợ chữa đồng hồ hoặc ca sĩ nổi tiếng. Thượng Đế ban cho người mù một “con mắt” khác để bù lại đôi mắt đã bị lấy đi.

    Nhân vật chính trong bài Tin Mừng hôm nay là một người mù từ khi bẩm sinh. Chúa Giê-su đã chữa cho anh được sáng mắt, giúp anh nhìn thấy được như bao người bình thường khác. Chữa lành người mù là đưa họ vào một thế giới mới. Người trước đây bị mù, khi được chữa lành, không chỉ cảm nhận được thế giới kỳ vĩ xung quanh với thiên nhiên tươi đẹp, mà anh còn nhận ra Chân lý. Anh đã tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng đến từ Thiên Chúa, là vị Ngôn sứ và là Đấng Cứu độ trần gian.

    Nếu người thanh niên bị mù bẩm sinh là nhân vật chính trong câu chuyện, thì lại có nhiều nhân vật phụ cấu thành sự phong phú của sự kiện này. Phép lạ này được thực hiện trong bối cảnh khá căng thẳng giữa Chúa Giê-su và người Do Thái. Những người này phản ứng dữ dội trước lời giảng của Chúa Giê-su, khi Người tuyên bố “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12). Chúa Giê-su đến với một thế giới đang bị bóng tối che phủ và những người đương thời, xem ra đều “bị mù” do thành kiến, ích kỷ và độc đoán. Ngay từ đầu trình thuật, chúng ta đã thấy các môn đệ thưa Chúa Giê-su: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”. Chúa Giê-su trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội”. Con người hồ đồ hay gán cho những sự kiện hay nhân vật lời kết án nghiệt ngã, trong khi Thiên Chúa là Đấng có quyền kết án thì lại không hề làm điều đó. Chúa Giê-su muốn giải thích cho mọi người hiểu: sự mù tối thiêng liêng còn nguy hại hơn mù tối thể lý.

    Nhóm người mù tối thiêng liêng gồm: các môn đệ, một số người Biệt phái, kỳ lão và luật sĩ. Họ là những người học hành uyên bác, ấy vậy mà theo cách lập luận của họ đối với người trước đây đã bị mù, họ chẳng hiểu gì cả. Họ chỉ tìm cớ để hạch sách. Con mắt tâm hồn của họ bị mù tối. Họ cố tình lập luận để tìm cách tố cáo Chúa Giê-su. Họ kiếm cớ ngày Sa bát để bắt lỗi Chúa. Người mù chỉ được họ sử dụng như một nguyên cớ. Họ không vui mừng trước sự kiện một người thiệt phận nay được giải thoát khỏi bóng tối bao trùm cả cuộc đời. Những người này mới là người mù đích thực.

    Trong số những người mù ấy, có cả cha mẹ của người được chữa lành. Thay vì vui mừng và cám ơn người đã chữa cho con mình, họ lại sợ hãi và tránh né câu hỏi hạch sách của những người Biệt phái. Họ cũng là những người cần được giúp đỡ để khai thông con mắt tâm hồn.

    Nếu chàng thanh niên mù được chữa lành là nhân vật chính trong trình thuật, là để dẫn tới Chúa Giê-su là nguồn sáng thế gian. Qua phép lạ chữa người mù bẩm sinh, Chúa Giê-su chứng minh Người là Ánh sáng thế gian. Người mở mắt người mù, đồng thời cũng mở những tâm hồn mù tối, do ghen ghét hận thù và do ích kỷ nhỏ nhen. Lời tuyên bố của Chúa Giê-su ở cuối trình thuật đã khẳng định điều ấy: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!”

    Người có con mắt sáng, là người có cái nhìn theo hướng dẫn của Chúa. Ông Samuel không xức dầu cho một người con nào khác trong số bảy người con của ông I-sai ở Belem, mặc dù những người con lớn cao to vạm vỡ, mà lại xức dầu cho Đa-vít là cậu út, vì Đa-vít là người được Chúa chọn (Bài đọc I).

    Nhờ Bí tích Thanh tẩy, chúng ta trở nên con cái sự sáng. Chúng ta mang trong mình ánh sáng của Chúa Giêsu. Ơn gọi và bổn phận của người tín hữu là nên giống Chúa Giê-su, và làm lan toả ánh sáng của Người trong cuộc sống thường ngày. Cuộc sống trần gian là sự giành giật không ngừng giữa bóng đêm và ánh sáng. Có những lúc bóng đêm lại được tô vẽ bằng những ngôn từ mỹ miều choáng ngợp dễ làm cho người ta bị lừa. Vì thế, Thánh Phao-lô khuyên chúng ta: “Anh em hãy ăn ở như con của sự sáng, bởi vì hoa trái của sự sáng ở tại tất cả những gì là tốt lành, là công chính và chân thật” (Bài đọc II).

    Mùa Chay vừa giúp ta nhận ra Chân lý, và giúp ta nhận ra những điều tốt đẹp nơi anh chị em mình. Nhờ việc phân định giữa “mù và sáng”, chúng ta cảm nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng đang hiện diện giữa chúng ta.

    “Luôn nhìn thấy những người giỏi giang hơn mình, có nghĩa là chúng ta đang lên dốc; luôn nhìn thấy những người kém hơn mình, có nghĩa là chúng ta đang xuống dốc. Thay vì phàn nàn, hãy nghĩ về những thay đổi để tạo cho mình một tương lai tốt đẹp hơn” (Sưu tầm”.

    +TGM Giuse Vũ Văn Thiên

    Nguồn tin:  https://www.tonggiaophanhanoi.org/

    Bài viết liên quan