Chúa nhật Lễ Lá - Năm A (Mt 26, 14-27.66)

  • 01/04/2023 14:28
  • Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa.

    CHÚA NHẬT LỄ LÁ – Năm A

    Bậc lễ: Chúa Nhật

    Màu phụng vụ: Đỏ

    I.  NGHI THỨC TƯỞNG NIỆM CHÚA VÀO GIÊ-RU-SA-LEM

    (1) Linh mục chào giáo dân như thường lệ; nói ít lời với giáo dân hoặc:

    Anh chị em thân mến, chúng ta tụ họp nơi đây, để cùng toàn thể Giáo Hội khai mạc tuần thánh tưởng niệm mầu nhiệm Vượt Qua, tức là cuộc thương khó và Phục Sinh của Ðức Ki-tô. Ðể chuẩn bị Tuần Thánh, trong suốt mùa chay, chúng ta đã cầu nguyện, thống hối, chia sẻ tình thương và cơm áo cho nhau.

    Chúa nhật lễ lá hôm nay là ngày kỷ niệm Ðấng Cứu Thế vào thành thánh Giê-ru-sa-lem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại cho loài người ơn cứu độ, chúng ta hãy đem cả niềm tin mà hăng hái bước theo Người. Xin Người ban ơn để chúng ta thông phần đau khổ Người đã chịu trên thập Giá, hầu được chia sẻ vinh quang Phục Sinh và sự sống của Người.

    (2) Linh mục đọc một trong hai lời nguyện sau đây:

    Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin thánh X hiến những cành lá này, để chúng con cầm mà hoan nghênh Ðức Giêsu là Vua chúng con. Xin ban cho mọi người chúng con đây là tín hữu Chúa được theo Người vào thành thánh Giê-ru-sa-lem vĩnh cửu. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.

    Hoặc:

    Lạy Chúa, xin gia tăng lòng tin cho chúng con là những kẻ cậy trông vào Chúa. giờ đây chúng con cầm những cành lá này, nghênh đón Ðức Ki-tô khải hoàn vinh hiển. Xin Chúa thương nhận lời và ban cho chúng con được sống kết hợp với Người như cành liền cây hầu sinh hoa kết quả. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.

    (3) Linh mục thinh lặng rảy nước thánh trên lá. phát lá;

    Công bố Tin Mừng: Mt 21, 1-11

    “Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa”

    Tin Mừng Chúa Giêsu Ki-tô theo thánh Mát-thêu.

    Khi Ðức Giêsu và các môn đệ đi gần tới thành Giê-ru-sa-lem đến làng Bết-pha-ghê, phía núi cây ô-liu, Người sai hai môn đệ và bảo: “các anh đi vào làng trước mặt kia và sẽ thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh. Các anh cởi dây ra và dắt về cho Thầy. Nếu có ai nói gì, thì trả lời là Thầy có việc cần dùng. Thầy sẽ trả ngay. Sự việc đã xảy ra như thế để ứng nghiệm lời ngôn sứ.

    “Hãy bảo thiếu nữ xi-on: Kìa Ðức Vua đến với ngươi; Khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của thú vật chở đồ.”

    Các môn đệ ra đi và làm theo lời Ðức Giêsu đã dạy. Các ông dắt lừa mẹ lừa con về, trải áo choàng của mình trên lưng chúng, và Ðức Giêsu cỡi lên. Ðông đảo dân chúng trải áo xuống mặt đường, một số khác lại chặt cành chặt lá rải lên lối đi. Dân chúng, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy “Hoan hô Thái Tử nhà Ða-vít! Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa! Hoan hô Chúa trên các tầng Trời!” Khi Ðức Giêsu vào Giê-ru-sa-lem, cả thành náo động, và thiên hạ hỏi nhau: ” Ông nào vậy?” Dân chúng trả lời: “Ngôn sứ Giêsu, người Na-da-rét, xứ Ga-li-lê đấy.”

    Ðó là Lời Chúa.

    (4) Sau Tin Mừng, tùy nghi giảng vắn tắt. Ðể bắt đầu cuộc rước chủ tế kêu gọi:

    Anh chị em thân mến, chúng ta hãy noi gương dân thành Giê-ru-sa-lem mà hoan hỷ lên đường nghênh đón Ðức Ki-tô.

    (5) Thứ tự: người cầm hương; thánh giá có gắn lá; Linh mục và giúp lễ; giáo dân tay cầm lá.

    Hình thức thứ hai: Nhập lễ trọng thể

    Giáo dân cầm cành lá trong tay tụ họp ngoài hay trong chính nhà thờ. Chủ tế, giúp lễ và đại diện giáo dân đến một nơi đã dọn sẵn ngoài cung thánh. (14) Ðang khi ấy hát Hoan hô Thái Tử… Rồi làm phép lá, công bố Tin Mừng; sau đó tiến lên cung thánh cách trọng thể, trong khi ấy hát “xưa Chúa vào thành thánh…”

    Tới bàn thờ, chủ tế tuỳ nghi xông hương. Ðọc lời nguyện nhập lễ, tiếp tục như thường.

    Hình thức thứ ba: Nhập lễ đơn giản

    Như thường lệ

     

    II. THÁNH LỄ

     

    1. Bài đọc 1:  Is 50, 4-7

    Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Mỗi sáng Người đánh thức tôi, Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn. Thiên Chúa đã mở tai tôi, mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn.

     

     

    2.  Đáp ca:  Tv 21, 8-9. 17-18a. 19-20. 23-24

    Ðáp:  Ôi Thiên Chúa! Ôi Thiên Chúa! sao Chúa đã bỏ con?

    Xướng:

    1)  Bao người thấy con đều mỉa mai con, họ bĩu môi, họ lắc đầu: “Hắn tin cậy Chúa, xin Ngài cứu hắn, xin Ngài giải gỡ hắn, nếu Ngài yêu thương”.

    2)  Ðứng quanh con là đàn ưng khuyển, một lũ côn đồ bao bọc lấy con. Chân tay con chúng đều chọc thủng, con có thể đếm được mọi đốt xương con.

    3)  Phần chúng thì nhìn xem con và vui vẻ, đem y phục của con chia sẻ với nhau, còn tấm áo dài, thì chúng rút thăm… Phần Ngài, lạy Chúa, xin chớ đứng xa con, ôi Ðấng phù trợ con, xin kíp ra tay nâng đỡ.

    4)  Con sẽ tường thuật danh Chúa cho các anh em, giữa nơi công hội, con sẽ ngợi khen Người. “Chư quân là người tôn sợ Chúa, xin hãy ca khen Chúa, toàn thể miêu duệ nhà Giacóp, hãy chúc tụng Người, hãy tôn sợ Người, hết thảy dòng giống Israel!”

     

     

    3. Bài đọc 2:  Pl 2, 6-11

    Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang.

     

     

    4.  Tin Mừng:  Mt 26, 14 – 27, 66 (bài dài)

    “Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.

    (C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu)

    C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Matthêu.

    Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai, tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và nói với họ:

    S. “Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?”

    C. Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người. Ngày thứ nhất tuần lễ ăn bánh không men, các môn đệ đến thưa Chúa Giêsu rằng:

    J. “Thầy muốn chúng con sửa soạn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua ở đâu?”

    C. Chúa Giêsu đáp:

    J. “Các con hãy vào thành, đến với một người kia nói rằng: Thầy bảo, giờ Ta đã gần, Ta sẽ mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ tại nhà ông”.

    C. Các môn đệ làm như Chúa Giêsu truyền và sửa soạn Lễ Vượt Qua. Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ.

    Và khi các ông đang ăn, Người nói:

    J. “Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy”.

    C. Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người:

    S. “Thưa Thầy, có phải con không?”

    C. Người trả lời rằng:

    J. “Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ nộp Thầy. Thực ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ sẽ nộp Con Người! Thà người đó đừng sinh ra thì hơn!”

    C. Giuđa, kẻ phản bội, cũng thưa Người rằng:

    S. “Thưa Thầy, có phải con chăng?”

    C. Chúa đáp:

    J. “Ðúng như con nói”.

    C. Vậy khi mọi người còn đang ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà phán:

    J. “Các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là Mình Ta”.

    C. Ðoạn Người cầm lấy chén, tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ mà phán:

    J. “Tất cả các con hãy uống chén này, vì này là Máu Ta, Máu Tân Ước, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Thầy bảo các con: Từ nay, Thầy sẽ không còn uống chất nho này nữa cho đến ngày Thầy sẽ uống rượu mới cùng các con trong nước Cha Thầy”.

    C. Sau khi hát thánh vịnh, Thầy trò liền lên núi Ôliu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo các ông:

    J. “Tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy trong chính đêm nay, vì có lời chép rằng: “Ta sẽ đánh chủ chăn, và các chiên trong đoàn sẽ tan tác”. Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con”.

    C. Phêrô liền thưa:

    S. “Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, riêng con, con sẽ không bao giờ vấp phạm”.

    C. Chúa Giêsu đáp:

    J. “Thầy bảo thật con, chính đêm nay, trước khi gà gáy, con sẽ chối Thầy ba lần”.

    C. Phêrô lại thưa:

    S. “Dù có phải chết cùng Thầy, con sẽ không chối Thầy”.

    C. Và tất cả các môn đệ cùng nói như vậy.

    Rồi Chúa Giêsu cùng đi với các ông đến một chỗ gọi là Ghếtsêmani, và Người bảo các môn đệ:

    J. “Các con hãy ngồi đây để Thầy đến đàng kia cầu nguyện”.

    C. Ðoạn Chúa đưa Phêrô và hai người con ông Giêbêđê cùng đi, Người bắt đầu cảm thấy buồn bực và sầu não. Lúc ấy, Người bảo các ông:

    J. “Linh hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết được; các con hãy ở lại đây và thức với Thầy”.

    C. Tiến xa hơn một chút, Người sấp mặt xuống, cầu nguyện và nói:

    J. “Lạy Cha, nếu được, xin cho Con khỏi chén này! Nhưng đừng như ý Con muốn, một theo ý Cha muốn”.

    C. Người trở lại cùng các môn đệ và thấy các ông đang ngủ, liền nói với Phêrô:

    J. “Chẳng lẽ các con không thức cùng Thầy được lấy một giờ ư? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi lâm cơn cám dỗ: vì tinh thần thì lanh lẹ, nhưng xác thịt thì yếu đuối”.

    C. Rồi Người lại đi cầu nguyện lần thứ hai mà rằng:

    J. “Lạy Cha, nếu chén này không thể qua đi được mà Con phải uống, thì xin theo ý Cha”.

    C. Ðoạn Người trở lại và thấy các ông còn ngủ, vì mắt các ông nặng trĩu. Người để mặc các ông và đi cầu nguyện lần thứ ba, vẫn lại những lời như trước. Sau đó Người trở lại với các môn đệ và bảo:

    J. “Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi! Này sắp đến giờ Con Người sẽ bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Các con hãy chỗi dậy. Chúng ta hãy đi: này kẻ nộp Thầy đã tới gần”.

    C. Người còn đang nói, thì đây, Giuđa, một trong nhóm mười hai, và cùng với y có lũ đông mang gươm giáo gậy gộc, do các thượng tế và kỳ lão trong dân sai đến. Vậy tên nội công đã dặn họ ám hiệu này:

    S. “Hễ tôi hôn người nào, thì đó chính là Người, các ông hãy bắt lấy”.

    C. Tức khắc Giuđa tới gần Chúa Giêsu và nói:

    S. “Chào Thầy”.

    C. Và nó hôn Người. Nhưng Chúa Giêsu bảo:

    J. “Hỡi bạn, bạn đến đây làm chi?”

    C. Lúc đó chúng xông tới, tra tay bắt Chúa Giêsu. Ngay sau đó, một trong những người vẫn theo Chúa Giêsu, giơ tay rút gươm và chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu liền bảo:

    J. “Con hãy xỏ ngay gươm vào bao: vì tất cả những kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm. Nào con tưởng rằng Thầy không thể xin Cha Thầy và Ngài sẽ tức khắc gởi đến hơn mười hai cơ binh thiên thần sao? Mà như thế thì làm sao ứng nghiệm lời Kinh Thánh bảo: Sự thế phải như vậy?”

    C. Lúc đó Chúa Giêsu nói cùng đám đông rằng:

    J. “Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ, giữa các ngươi, mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng tất cả sự đó xảy ra là để ứng nghiệm lời các tiên tri đã chép”.

    C. Bấy giờ các môn đệ bỏ Người và chạy trốn hết.

    Những kẻ đã bắt Chúa Giêsu điệu Người đến thầy thượng tế Caipha. Nơi đây các luật sĩ và kỳ lão đã hội họp. Phêrô theo Người xa xa cho tới dinh thầy thượng tế. Rồi ông vào trong dinh ngồi cùng bọn đầy tớ, xem việc xảy ra thế nào. Vậy các thượng tế và tất cả công nghị tìm chứng gian cáo Chúa Giêsu để lên án xử tử Người. Và họ đã không tìm được, mặc dù đã có một số đông chứng nhân ra mắt. Sau cùng, hai người làm chứng gian đến khai rằng:

    S. “Người này đã nói: Ta có thể phá đền thờ Thiên Chúa và xây cất lại trong ba ngày”.

    C. Bấy giờ thầy thượng tế đứng lên nói:

    S. “Ông không trả lời gì về các điều những người này đã cáo ông ư?”

    C. Nhưng Chúa Giêsu làm thinh, nên thầy thượng tế bảo Người:

    S. “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, ta truyền cho ông hãy nói cho chúng ta biết: Ông có phải là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa không?”

    C. Chúa Giêsu trả lời:

    J. “Ông đã nói đúng. Nhưng Ta nói thật với các ông: rồi đây các ông sẽ xem thấy Con Người ngự bên hữu Ðấng Toàn Năng, và sẽ đến trên đám mây”.

    C. Bấy giờ thầy thượng tế xé áo mình ra và nói:

    S. “Nó đã nói lộng ngôn! Chúng ta còn cần gì đến nhân chứng nữa? Ðây các ngài vừa nghe lời lộng ngôn. Các ngài nghĩ sao?”

    C. Họ đáp lại:

    S. “Nó đáng chết!”

    C. Bấy giờ chúng nhổ vào mặt Người, đấm đánh Người, lại có kẻ tát vả Người mà nói rằng:

    S. “Hỡi Kitô, hãy bói xem, ai đánh ông đó?”

    C. Còn Phêrô ngồi ở ngoài sân. Một đầy tớ gái lại gần và nói:

    S. “Ông nữa, ông cũng đã theo Giêsu người xứ Galilêa”.

    C. Nhưng ông chối trước mặt mọi người mà rằng:

    S. “Tôi không hiểu chị muốn nói gì?”

    C. Khi ông lui ra đến cổng, một đầy tớ gái khác thấy ông, liền nói với những người ở đó:

    S. “Ông này cũng theo Giêsu người Nadarét”.

    C. Ông thề mà chối rằng:

    S. “Tôi không biết người ấy”.

    C. Một lúc sau, mấy người đứng đó lại gần mà nói với Phêrô rằng:

    S. “Ðúng rồi, ngươi cũng thuộc bọn ấy. Vì chính giọng nói của ngươi tiết lộ tông tích ngươi”.

    C. Bấy giờ ông rủa mà thề rằng: ông không hề biết người ấy. Tức thì gà gáy. Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói: “Trước khi gà gáy, con sẽ chối Ta ba lần”, và ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết.

    Trời vừa sáng, các thượng tế và kỳ lão trong dân hội họp bày mưu giết Chúa Giêsu. Họ trói Người và điệu đi nộp cho tổng trấn Phongxiô Philatô. Bấy giờ Giuđa, kẻ nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận, đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ lão mà nói rằng:

    S. “Tôi đã phạm tội vì nộp máu người công chính”.

    C. Nhưng họ trả lời:

    S. “Can chi đến chúng tôi! Mặc kệ anh!”

    C. Anh ta ném những đồng bạc đó vào trong đền thờ và ra đi thắt cổ. Các thượng tế lượm lấy bạc đó và nói:

    S. “Không nên để bạc này vào kho vì là giá máu”.

    C. Sau khi bàn bạc, họ lấy tiền đó mua thửa ruộng của người thợ gốm làm nơi chôn cất những người ngoại kiều. Bởi thế, ruộng ấy cho đến ngày nay được gọi là Haselđama, nghĩa là ruộng máu. Như vậy là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia nói: “Chúng đã lấy ba mươi đồng bạc là giá do con cái Israel đã mặc cả mà bán Ðấng cao trọng. Và họ mang tiền đó mua ruộng của người thợ gốm như lời Chúa đã truyền cho tôi”.

    Vậy Chúa Giêsu đứng trước quan tổng trấn, và quan hỏi Người rằng:

    S. “Ông có phải là Vua dân Do-thái không?”

    C. Chúa Giêsu đáp:

    J. “Ông nói đúng!”

    C. Nhưng khi các thượng tế và kỳ lão tố cáo Người thì Người không trả lời chi cả. Bấy giờ Philatô bảo Người:

    S. “Ông không nghe thấy tất cả những điều họ tố cáo ông sao?”

    C. Chúa Giêsu cũng không đáp lại về một điều nào, khiến quan tổng trấn hết sức ngạc nhiên.

    Vào mỗi dịp lễ trọng, quan tổng trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói với dân chúng đã tụ tập lại đó rằng:

    S. “Các ngươi muốn ta phóng thích ai, Baraba hay Giêsu mà người ta vẫn gọi là Kitô?”

    C. Quan biết rõ chỉ vì ghen ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói cùng quan rằng:

    S. “Xin ông đừng can thiệp gì đến vụ người công chính ấy, vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy”.

    C. Nhưng các thượng tế và kỳ lão xúi giục dân xin tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ:

    S. “Trong hai người đó các ngươi muốn ta phóng thích ai?”

    C. Họ thưa:

    S. “Baraba!”

    C. Philatô hỏi:

    S. “Vậy đối với Giêsu gọi là Kitô, ta phải làm gì?”

    C. Họ đồng thanh đáp:

    S. “Ðóng đinh nó đi!”

    C. Quan lại hỏi:

    S. “Nhưng người này đã làm gì nên tội?”

    C. Chúng càng la to:

    S. “Ðóng đinh nó đi!”

    C. Bấy giờ Philatô thấy mất công, lại thêm náo động, nên ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói:

    S. “Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi”.

    C. Toàn dân đáp:

    S. “Hãy để cho máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cái chúng tôi”.

    C. Bấy giờ quan phóng thích Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá.

    Bấy giờ lính tổng trấn liền điệu Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội lại chung quanh Người. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng:

    S. “Tâu vua dân Do-thái!”

    C. Ðoạn họ khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy đập trên đầu Người. Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc đi ra, họ gặp một người thành Xyrênê tên là Simon, liền bắt ông vác đỡ thánh giá cho Người.

    Họ đi đến một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với mật đắng, Người chỉ nếm qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên thập giá rồi, họ rút thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng: “Chúng đã chia nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm”. Rồi họ ngồi lại canh Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau: Người này là Giêsu, vua dân Do-thái. Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm cướp, một tên bên hữu, một tên bên tả.

    Những người đi ngang qua, lắc đầu chế diễu Người và nói:

    S. “Kìa, ngươi là kẻ phá đền thờ và xây cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi!”

    C. Các thượng tế cùng luật sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng:

    S. “Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu nổi chính mình! Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờ hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài thương nó thì bây giờ Ngài hãy cứu nó, vì nó nói: “Ta là Con Thiên Chúa!”

    C. Cả những tên cướp bị đóng đinh trên thập giá với Người cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu kêu lớn tiếng:

    J. “Eli, Eli, lema sabachtani!”

    C. Nghĩa là:

    J. “Lạy Chúa con, lạy Chúa con! sao Chúa bỏ con!”

    C. Có mấy người đứng đó nghe vậy nói rằng:

    S. “Nó gọi tiên tri Elia”.

    C. Lập tức một người trong bọn chạy đi lấy một miếng bọt biển, nhúng đầy dấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại bảo:

    S. “Hãy chờ xem Elia có đến cứu nó không?”

    C. Ðoạn Chúa Giêsu lại kêu lên lớn tiếng và trút hơi thở.

    (Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

    Bỗng nhiên màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra. Các mồ mả mở tung và xác của nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người. Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ hãi và nói:

    S. “Ðúng người này là Con Thiên Chúa”.

    C. Ở đó cũng có nhiều phụ nữ đứng xa xa; họ là những người đã theo giúp Chúa Giêsu từ xứ Galilêa. Trong số đó có Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê và Giuse, và mẹ các người con của Giêbêđê.

    Tới chiều có một người giàu sang quê ở Arimathia tên là Giuse, cũng đã làm môn đệ Chúa Giêsu, ông đi gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Bấy giờ Philatô truyền giao xác cho ông. Vậy ông Giuse lấy xác, liệm trong một khăn sạch, và đặt trong mồ mà ông đã cho đục trong đá, rồi ông lăn một tảng đá lớn lấp cửa mồ lại và ra về. Còn Maria Mađalêna và bà Maria kia cùng ngồi đó nhìn vào mộ.

    Hôm sau, tức là sau ngày chuẩn bị mừng lễ, các thượng tế và biệt phái đến dinh Philatô trình rằng:

    S. “Thưa ngài, chúng tôi nhớ, lúc sinh thời tên bịp bợm ấy có nói: “Sau ba ngày, Ta sẽ sống lại”. Vậy xin ngài truyền lệnh cho canh mộ đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ nó lấy trộm xác rồi phao đồn với dân chúng rằng: Người đã từ cõi chết sống lại! Và như thế, sự gian dối này lại còn tai hại hơn trước”.

    C. Philatô trả lời:

    S. Các ông đã có lính canh thì cứ đi mà canh như ý.

    C. Họ liền đi và đóng ấn niêm phong tảng đá và cắt lính canh giữ mồ.

    Hoặc đọc bài vắn này: Mt 27, 11-54

    C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Matthêu.

    Khi ấy, Chúa Giêsu đứng trước tổng trấn Phi-latô, và quan hỏi Người rằng:

    S. “Ông có phải là Vua dân Do-thái không?”

    C. Chúa Giêsu đáp:

    J. “Ông nói đúng!”

    C. Nhưng khi các thượng tế và kỳ lão tố cáo Người thì Người không trả lời chi cả. Bấy giờ Philatô bảo Người:

    S. “Ông không nghe thấy tất cả những điều họ tố cáo ông sao?”

    C. Chúa Giêsu cũng không đáp lại về một điều nào, khiến quan tổng trấn hết sức ngạc nhiên.

    Vào mỗi dịp lễ trọng, quan tổng trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói với dân chúng đã tụ tập lại đó rằng:

    S. “Các ngươi muốn ta phóng thích ai, Baraba hay Giêsu mà người ta vẫn gọi là Kitô?”

    C. Quan biết rõ chỉ vì ghen ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói cùng quan rằng:

    S. “Xin ông đừng can thiệp gì đến vụ người công chính ấy, vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy”.

    C. Nhưng các thượng tế và kỳ lão xúi giục dân xin tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ:

    S. “Trong hai người đó các ngươi muốn ta phóng thích ai?”

    C. Họ thưa:

    S. “Baraba!”

    C. Quan lại lên tiếng hỏi họ:

    S. “Vậy đối với Giêsu gọi là Kitô, ta phải làm gì?”

    C. Họ đồng thanh đáp:

    S. “Ðóng đinh nó đi!”

    C. Quan lại hỏi:

    S. “Nhưng người này đã làm gì nên tội?”

    C. Chúng càng la to:

    S. “Ðóng đinh nó đi!”

    C. Bấy giờ Philatô thấy mất công, lại thêm náo động, nên ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói:

    S. “Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi”.

    C. Toàn dân đáp:

    S. “Hãy để cho máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cái chúng tôi”.

    C. Bấy giờ quan phóng thích Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá.

    Bấy giờ lính tổng trấn liền điệu Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội lại chung quanh Người. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng:

    S. “Tâu vua dân Do-thái!”

    C. Ðoạn họ khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy đập trên đầu Người. Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc đi ra, họ gặp một người thành Xyrênê tên là Simon, liền bắt ông vác đỡ thánh giá cho Người.

    Họ đi đến một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với mật đắng, Người chỉ nếm qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên thập giá rồi, họ rút thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng: “Chúng đã chia nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm”. Rồi họ ngồi lại canh Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau: Người này là Giêsu, vua dân Do-thái. Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm cướp, một tên bên hữu, một tên bên tả.

    Những người đi ngang qua, lắc đầu chế diễu Người và nói:

    S. “Kìa, ngươi là kẻ phá đền thờ và xây cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi!”

    C. Các thượng tế cùng luật sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng:

    S. “Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu nổi chính mình! Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờ hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài thương nó thì bây giờ Ngài hãy cứu nó, vì nó nói: “Ta là Con Thiên Chúa!”

    C. Cả những tên cướp bị đóng đinh trên thập giá với Người cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu kêu lớn tiếng:

    J. “Eli, Eli, lema sabachtani!”

    C. Nghĩa là:

    J. “Lạy Chúa con, lạy Chúa con! sao Chúa bỏ con!”

    C. Có mấy người đứng đó nghe vậy nói rằng:

    S. “Nó gọi tiên tri Elia”.

    C. Lập tức một người trong bọn chạy đi lấy một miếng bọt biển, nhúng đầy dấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại bảo:

    S. “Hãy chờ xem Elia có đến cứu nó không?”

    C. Ðoạn Chúa Giêsu lại kêu lên lớn tiếng và trút hơi thở.

    (Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

    Bỗng nhiên màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra. Các mồ mả mở tung và xác của nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người. Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ hãi và nói:

    S. “Ðúng người này là Con Thiên Chúa”.

     

     

    5. Suy niệm:  TGM Giuse Vũ Văn Thiên

    5.1  Suy niệm 1:

    Nghi thức phụng vụ khai mạc Tuần Thánh mang nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau: khởi đầu là bầu khí náo nhiệt tưng bừng, kết thúc là một thảm kịch bi thương. Bài thương khó theo thánh Matthêu đưa chúng ta từ phòng Tiệc ly, đến chân thập giá và cuối cùng kết thúc nơi một nấm mồ được niêm phong. Nghe đọc trình thuật thương khó của Chúa Giêsu, chúng ta cũng hoảng hốt như các môn đệ và số đông dân chúng đương thời. Có lẽ nào một người tự xưng là Thiên Chúa mà nay phải chết cách nhục nhã thương đau? Có lẽ nào một vị ngôn sứ đã từng nổi tiếng về quyền năng trong lời nói cũng như hành động mà nay phải thất bại trước mưu mô toan tính của con người? Công lý ở đâu? Phải chăng trời không có mắt? Còn biết bao vấn nạn nữa được đặt ra, trong sự hoang mang sợ hãi của những người chứng kiến. Nỗi sợ ấy lớn đến mức các môn đệ sợ hãi chạy trốn. Giây phút Chúa Giêsu chịu thương khó và chịu chết là thời điểm của quyền lực tối tăm. Bạo lực và gian dối nhấn chìm tất cả trong đau thương và bi đát.

    Những sự kiện được trình bày trong Bài Thương khó, sẽ được lần lượt cử hành qua các lễ nghi của Tam nhật Vượt qua. Ngày lễ lá chỉ là khúc dạo đầu của các lễ nghi Tuần Thánh. Trong Tam nhật Vượt qua, chúng ta sẽ từng bước đi theo Chúa Giêsu từ nhà Tiệc Ly (thứ Năm Tuần Thánh) đến chân đồi Canvê (thứ Sáu Tuần Thánh). Cùng cảm nhận sự hoang mang trống vắng của các môn đệ, chúng ta đến bên mộ Chúa (thứ Bảy Tuần Thánh), rồi cuối cùng là niềm vui Phục sinh vỡ oà nơi chúng ta và các Kitô hữu trên khắp địa cầu.

    Hãy trở lại cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Tác giả Phúc âm cũng như các độc giả gốc Do Thái nhận ra nơi Chúa Giêsu người tôi tớ đau khổ mà ngôn sứ Isaia diễn tả. Bài đọc thứ nhất Lễ Lá là Bài ca thứ ba, trong số bốn bài ca về người tôi trung của Đức Giavê. Ngôn sứ Isaia diễn tả một người bị đánh bầm dập, chịu phỉ nhổ nhạo cười mà không thẹn thùng và cũng không cãi lại. Đó là người tôi tớ trọn niềm trung kiên để thực hiện thánh ý Đức Giavê. Tương tự như thế, thánh Matthêu diễn tả những nhục hình mà Chúa Giêsu đã chịu. Những người lĩnh La Mã chế giễu Chúa và trút lên Người những trận mưa đòn trong sự ngạo nghễ của một đại quốc đối với công dân của một nước chư hầu. Họ đã biến Người thành một tên hề để giải khuây. Trong tình huống này, Chúa Giêsu vẫn nhẫn nhục. Người mang vào bản thân sự đau đớn tinh thần cũng như thể xác. Đối với một người đã có thời nổi tiếng và vinh quang, mà nay chịu nhuốc nha sỉ nhục, thì nỗi nhục càng lớn hơn gấp bội.

    Trong trình thuật thương khó, đám đông dân chúng, dù không phải là nhân vật chính, nhưng lại có ảnh hưởng rất lớn. Mới trước đó họ cầm ngành lá để tung hô Chúa khi Chúa vào thành thánh, với sự thán phục và tự hào. Vậy mà giờ đây họ giơ cao tay để đòi Philatô giết Chúa. Họ nằng nặc đòi tha Baraba là một tù nhân khét tiếng, và đòi lên án tử cho Chúa Giêsu. Lòng thù hận đã làm cho con mắt họ trở nên mù tối. Dù biết Chúa Giêsu là người vô tội, họ vẫn tìm cớ để tố cáo Người.

    Đức Giêsu cô đơn giữa một đám đông khát máu. Chặng đường thập giá cho chúng ta thấy chỉ có vài người phụ nữ bày tỏ lòng xót thương theo cảm tính nữ nhi. Các môn đệ sợ hãi chạy trốn. Những người đã trầm trồ thán phục khi Người rao giảng và làm phép lạ, nay chẳng thấy đâu. Chúa đã đón nhận thập giá trong tâm tình vâng phục Chúa Cha. Bài đọc II, trích thư của thánh Phaolô gửi giáo dân Philipphê đã diễn tả điều đó. Người đã vâng lời cho đến chết và chết trên cây thập tự.  Tuy vậy, Chúa Giêsu không kết thúc cuộc đời ở nấm mộ. Người đã phục sinh. Qua sự phục sinh vinh quang này, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người. Cả trên trời dưới đất và nơi âm phủ đều phải tuyên xưng Người là Chúa.

    Trình thuật thương khó không chỉ là sự kiện của quá khứ cách đây hai ngàn năm, mà còn là của ngày hôm nay. Thế giới hiện tại chính là đám đông hỗn độn năm xưa. Quả vậy, trong xã hội của chúng ta, vẫn còn đó những người vô tội bị kết án oan sai và bị giết chết. Biết bao người là nạn nhân của bạo lực, của chiến tranh, của kỳ thị. Họ là những người yếu thế trước cường quyền. Khi đọc trình thuật thương khó, mỗi chúng ta đều có thể nhận ra mình là một nhân vật trong vở kịch bi thương đó. Hai ngàn năm đã qua, vẫn còn đó một đám đông ồn ào quan điểm bất nhất. Vẫn còn đó những Philatô, những ký lục và biệt phái. Họ là những người cậy quyền thế để áp bức dân nghèo. Chúa Giêsu vẫn đang vác thập giá ngang qua cuộc đời chúng ta. Người hiện thân nơi anh chị em chúng ta, nhất là nơi những người đau khổ và bất hạnh. Chúng ta thờ ơ với những đau thương của Người, khi chúng ta thờ ơ với nỗi đau của đồng loại. Biến cố thập giá giúp ta hồi tâm để tìm lại chính mình, đồng thời xin Chúa ban sức mạnh để tiếp tục tiến bước trong hành trình cuộc đời.

    Chứng kiến biến cố thập giá năm xưa, nhiều người đương thời cũng đặt ra những vấn nạn về bất công, đau khổ và về sự gian ác của con người. Hôm nay, trong cuộc sống của chúng ta, những vấn nạn đó cũng vẫn đang được đặt ra, thậm chí vấn nạn về sự hiện hữu của Thiên Chúa và về lòng thương xót của Người. Chúng ta hãy nhìn lên thập giá Chúa Giêsu để phần nào hiểu được ý nghĩa của đau khổ. Cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta: đã sinh vào kiếp người, ai cũng phải chết. Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Những ai yêu mến và hy sinh vì tha nhân, sẽ tìm được hạnh phúc cho bản thân mình. Hạnh phúc đó, không ai lấy mất, nhưng tồn tại mãi mãi. Thập giá cũng nói với chúng ta: chính con người đang huỷ hoại đồng loại và không ngừng gây đau khổ cho nhau. Hãy ngưng bạo lực! Hãy xây đắp tình huynh đệ! Như thế đau khổ sẽ bị đẩy lui và hạnh phúc sẽ tràn đầy. Chúa Giêsu sẽ nâng đỡ chúng ta trong hành trình thập giá, như chính Người đã hứa.

    Trong những ngày sắp tới, chúng ta cùng với Giáo Hội hoàn vũ cử hành nghi thức Tam nhật Vượt qua. Những nghi thức này, thường là khá dài, hàm chứa những ý nghĩa biểu tượng rất sâu sắc. Trong thinh lặng sâu lắng, chúng ta chiêm ngưỡng hình ảnh người Tôi tớ Giavê và suy tư cuộc khổ nạn của Người. Qua đó, cuộc đời chúng ta được biến đổi, bao dung quảng đại hơn. Chúa Giêsu đã chết vì chúng ta. Người là nạn nhân của bạo lực và của vu khống. Người khiêm nhường và hiền lành giữa cơn lốc hận thù của những người đồng bào. Người chấp nhận cái chết để đem lại tự do và giải thoát cho muôn dân. Người chính là con chiên vượt qua mới, thay thế cho con chiên vượt qua cũ của phụng tự Cựu ước.

    Thập giá không chỉ là biểu tượng của thương đau và thất bại, nhưng còn là dấu chỉ của tình yêu và hy vọng. Nếu Chúa Giêsu đã chết trên thập giá, thì Người cũng đã sống lại vinh quang. Thập giá chỉ là một giai đoạn mang tính nhất thời. Đau khổ nào rồi cũng sẽ qua đi. Sau cơn mưa trời lại hửng sáng. Sự phục sinh vinh quang mới là đích điểm của Đức tin Kitô giáo. Thế nhưng, không chết thì làm sao sống lại? Khi tham dự các nghi thức Tuần Thánh, Giáo Hội mượn lời thánh Phaolô để kêu mời chúng ta hãy cùng chết với Đức Kitô để được sống lại với Người. Hình ảnh hạt lúa mì gieo xuống đất chấp nhận mục nát để nảy nở, mọc cây và sinh hoa kết trái, chính là biểu tượng cho niềm hy vọng của chúng ta.

    5.2  Suy niệm 2:  Một niềm tín trung

     

    Cùng với tất cả các Kitô hữu trên toàn thế giới, chúng ta bước vào Tuần Thánh. Ngày lễ này được gọi là “Lễ Lá” bởi sự kiện dân chúng cầm ngành lá thiên tuế đi đón Chúa Giêsu khi Người long trọng tiến vào thành Giêrusalem. Thánh lễ khởi đầu với bầu không khí hân hoan tưng bừng và kết thúc trong trầm buồn lặng lẽ, với lời mời gọi các tín hữu tiếp tục suy tư mầu nhiệm thương khó, cũng như và ý nghĩa của thập giá sẽ được tôn vinh trong phụng vụ Tuần Thánh.

    Bài Thương khó theo Tin Mừng thánh Mátthêu khởi đầu bằng sự phản bội của Giuđa, một trong mười hai tông đồ. Giuđa đã được Chúa gọi, nuôi dưỡng và dạy dỗ. Vì tham tiền bạc mà ông đã phản bội Thày mình. Không chỉ có Giuđa, chúng ta còn thấy một số kỳ lão, người biệt phái, luật sĩ và đám đông dân chúng cũng đua nhau tố cáo Chúa. “Hội chứng đám đông” đã khiến những người này hăng hái và liên kết lại với nhau để vu khống cho Chúa đủ điều. Các môn đệ hằng ngày thân thiết và hăng hái với Thày, lúc này xem ra cũng yếu đuối, run sợ, thậm chí còn chối Thày như trường hợp Phêrô.

    Đối lại với những môn đệ sợ hãi chạy trốn, với một Giuđa phản bội và với một đám đông dân chúng đang bừng bừng căm giận, Chúa Giêsu vẫn khiêm tốn và trung thành. Người chấp nhận đi cho đến cùng chặng đường của sứ mạng Thiên sai. Người không dùng bạo lực để đối lại với bạo lực. Cuộc xét xử bất công của Công nghị Do Thái đã lên án người vô tội. Chúa Giêsu đã chết trên thập giá để đền thay cho tội lỗi loài người. Người đã đau khổ cho con người hạnh phúc, đã chết cho con người được sống. Mặc cho cơn sóng tội lỗi dồn dập, trước cơn cuồng phong của bạo lực, Chúa Giêsu vẫn yêu mến nhân loại và yêu cho đến cùng, như tác giả Tin Mừng thứ Bốn khẳng định với chúng ta. Trong mọi hoàn cảnh, Chúa Giêsu vẫn hướng về con người, kể cả khi chịu treo trên thập giá, với cái nhìn yêu thương. Cái nhìn yêu thương này hướng đến mỗi người và từng người. Cái nhìn đó mời gọi mọi người sống cho tình yêu và vì tình yêu. Đó chính là thông điệp Đấng chịu treo trên thập giá muốn gửi cho chúng ta.

    Qua cuộc thương khó đón nhận một cách tự nguyện, Chúa Giêsu đã đập tan quyền lực của sự chết đang tiềm ẩn nơi con người, tức là quyền lực của tội lỗi. Tội lỗi đã làm cho những người biệt phái và luật sĩ trở thành những người hằn học thù hận, đã làm cho Philatô hèn nhát trốn tránh trách nhiệm, đã khiến các môn đệ mê ngủ và chạy trốn và sau hết đã làm cho Phêrô nhát đảm chối Thày.

    “Quả thật, người này là con Thiên Chúa!”. Chúng ta thấy ở đây một điều trớ trêu: trong khi những người thường xuyên ở gần Chúa Giêsu, được Người giáo huấn và dạy bảo, thì tìm cách chạy trốn và phủ nhận mối tương quan với Người, thì một vị quan chức của đế quốc Rôma lại tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa. Vị quan chức này là một người ăn lương nhà nước, một người vô thần chẳng có liên quan gì đến vụ án Giêsu. Ông chỉ là người thi hành công vụ. Cái chết của một người vô tội và thánh thiện đã khẳng định với ông: Người này không phải là một tử tội bình thường như những tử tội khác.

    Hai bài đọc (Bài đọc I và bài đọc II) đều nhắc đến hình ảnh người Tôi tớ Trung thành trong đau khổ. Giáo Hội Kitô đã nhận ra Người Tôi tớ đau khổ mà ngôn sứ Isaia tiên báo nơi Đức Giêsu Kitô. Người đã mang trên thân mình những đau khổ của cả nhân loại mà không than van (Bài đọc I). Người đã “hủy mình ra không” để trở nên thân phận tôi đòi (Bài đọc II). Đức Giêsu chấp nhận tất cả những điều đó, vì vâng lời Chúa Cha và vì yêu thương nhân loại. Người cũng làm gương cho chúng ta, để rồi, trong cuộc sống còn nhiều gian nan thử thách này, chúng ta biết vác thập giá đời mình và vác thập giá cho nhau.

    Hai mươi thế kỷ sau cái chết của Đức Giêsu, Giáo Hội Kitô vẫn không ngừng tôn vinh cây thập giá, như cờ hiệu chiến thắng và như biểu tượng tình yêu. Khi tham dự phụng vụ hôm nay, mỗi người được mời gọi suy tư về thái độ sống của mình. Nghi thức làm phép lá và kiệu lá nhắc chúng ta, cuộc thương khó của Chúa vẫn đang diễn ra nơi những người đau khổ, nghèo hèn, bệnh tật, bị áp bức và thiệt thòi bất công trong xã hội hôm nay. Chúa đang đi qua cuộc đời này. Có những người đón tiếp Chúa, nhưng cũng có những người dửng dưng trước việc Chúa đi ngang qua cuộc đời họ, thậm chí có những người từ chối Chúa và gạt Người ra bên lề cuộc sống. Tiếng gọi của Chúa là tiếng gọi khiêm tốn, đôi khi bị lấn át bởi biết bao âm thanh hỗn tạp của “biển đời” đầy bon chen và giành giật. Vì thế, để lắng nghe lời của Người, chúng ta phải trút bớt khỏi tâm hồn những toan tính, tham vọng. Chúa thường tâm sự với những ai biết chuyên tâm cầu nguyện và những tâm hồn thích sống trong lắng đọng nội tâm. Ngày lễ Lá giúp chúng ta tự vấn lương tâm: chúng ta đón Chúa với tâm tình nào? Phải chăng là dửng dưng như một số người dân thành Giêrusalem năm xưa? Hoặc như một số người nhiệt thành tung hô Chúa, nhưng rồi sau đó thay lòng đổi dạ, giơ tay tố cáo Chúa và xin Philatô đóng đinh Người trên thập giá? Lời Chúa hôm nay vừa nêu cao hình ảnh Đức Giêsu như một tôi tớ tín trung của Thiên Chúa, vừa mời gọi chúng ta hãy noi gương Người, trung thành và kiên vững trong đời sống đức tin.

    Mùa Chay và Tuần Thánh năm nay, chúng ta trải nghiệm những tâm trạng đặc biệt. Đó là nỗi hoang mang, sự sợ hãi do bệnh viêm phổi Vũ Hán, còn gọi là COVID-19. Giữa cơn sợ hãi này, nhiều người đặt câu hỏi: Thiên Chúa ở đâu? Đây cũng là câu hỏi Chúa Giêsu đã đặt ra trên thập giá: “Lạy Cha, sao Cha bỏ con?” Khi Người chịu treo trên thập giá, những người biệt phái thách thức Chúa: “Nếu ông là con Thiên Chúa, ông hãy bước xuống khỏi thập giá đi!”. Chúa Giêsu không chấp nhận lời thách thức ấy. Người không bước xuống khỏi thập giá. Người đã vui lòng chấp nhận để vâng ý Chúa Cha và để đem lại ơn cứu độ cho con người. Như đã nói ở trên, chính lúc Chúa Giêsu tắt thở trên thập giá, lại là lúc người sĩ quan Rôma tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa. Trở lại với câu hỏi con người thời nay thường đặt ra: Thiên Chúa ở đâu giữa những đau khổ của con người? Một nhà thần học đã trả lời: Thiên Chúa đang ở đây, bên cạnh chúng ta, nơi những gương mặt đau khổ, để cùng đau khổ với họ và ban ơn nâng đỡ cũng như lau khô giọt lệ nơi khóe mắt họ. Thiên Chúa hiện diện giữa chúng ta và trở nên “nạn nhân” với chúng ta. Nhờ sự hiện diện của Ngài, mà chúng ta có một cái nhìn mới về nhân sinh, về đau khổ và về tình liên đới. Về nhân sinh: chúng ta cảm nhận sự mỏng giòn mong manh của kiếp người. Về đau khổ: chúng ta thấy đây là lửa thử vàng. Về tình liên đới: hơn bao giờ hết, chúng ta thấy cần có trách nhiệm với xã hội, với công ích, với cộng đoàn. Trong cuộc sống, một loại hình dịch bệnh còn nguy hiểm hơn cả COVID-19, đó là tội lỗi. Bởi lẽ nó cắt đứt mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Nếu COVID-19 giết hại thể xác, thì tội lỗi giết chết phần linh hồn. Nếu COVID-19 làm cho con người xa lánh nhau, thì tội lỗi lại làm cho người trở thành kẻ thù của nhau. Qua đại dịch COVID-19, chúng ta đi sâu hơn vào mầu nhiệm thập giá, mầu nhiệm đau khổ, với niềm xác tín: thập giá là đau khổ nhưng cũng là vinh quang. Những ai cùng chịu chết với Chúa Kitô sẽ được cùng sống lại với Người.

    Thập giá không chỉ là câu chuyện của xa xưa, nhưng là câu chuyện của hiện tại. Quả vậy, thập giá vẫn hiện hữu trong gia đình, qua những mâu thuẫn bất hòa, nơi cuộc sống xã hội, nơi những bạo lực tranh chấp; nơi những mâu thuẫn huynh đệ tương tàn do sự bất bao dung. Thập giá vẫn còn đó qua những bế tắc của cuộc sống. Nhờ ơn trợ giúp của Thiên Chúa, với thiện chí và nỗ lực cố gắng của con người, thập giá sẽ trở nên nhẹ nhàng hơn. Một tác giả đã viết: Đức Giêsu đến trần gian không phải để hủy bỏ thập giá, nhưng Người đã vác thập giá lên đồi Canvê. Đức Giêsu không đến trần gian để cất thập giá khỏi đôi vai của con người, nhưng Người cùng họ bước đi trong hành trình cuộc đời. Qua đó, Người khẳng định với chúng ta: từ nay, con người không còn phải vác thập giá đơn lẻ trên đường đời, mà có Chúa Giêsu cùng vác với họ.

    Đừng nghĩ rằng Thiên Chúa tạo ra thập giá để bắt con người phải vác. Không! Thiên Chúa không tạo ra thập giá. Chính con người đã đặt cây gỗ lên vai Con Thiên Chúa rồi bắt Người vác đi. Khi Người đã kiệt sức thì họ mới cho người khác vác đỡ. Đau khổ trong cuộc sống là do con người không ngừng gây ra cho nhau và bắt nhau phải chịu đựng. Con cái gây đau khổ cho cha mẹ. Vợ chồng gây phiền toái cho nhau. Hàng xóm láng giềng gây mâu thuẫn tranh chấp… đó là những thập giá của đời thường. Nếu mỗi người biết góp phần giảm thiểu những mâu thuẫn bất hòa, sống quan tâm đến nhau và quan tâm đến công ích, thì cuộc sống này sẽ bớt đi thập giá, thay thế vào đó là sự an bình.

    Sau khi tham dự Lễ Lá, chúng ta sẽ mang theo một vài cành lá đã được làm phép về nhà. Cành lá này nhắc lại điều chúng ta đã hát: “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”. Cành lá này cũng nhắc chúng ta về lòng trung thành với Chúa trong đời sống. Sứ mạng của mỗi Kitô hữu là sống và làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Người muốn chúng ta hãy là chứng nhân loan báo sự chết và phục sinh của Người cho đến tận cùng thế giới. Người muốn mỗi chúng ta cũng biết hy sinh cho nhau, để cuộc sống này trở nên nhân ái và công bình hơn. Người còn muốn chúng ta hãy tiếp nối sứ mạng của Người xây dựng Nước Trời, một công trình được thực hiện ngay ở đời này và sẽ hoàn thành khi Người lại đến trong vinh quang. Trong suốt Tuần Thánh này, chúng ta hãy liên kết mật thiết với Chúa trong lời cầu nguyện.

    Mỗi khi cử hành Hy lễ Tạ ơn, chúng ta được đón nhận những hoa trái của cuộc thương khó Đức Giêsu. Người ban cho chúng ta không chỉ mình và máu Người, mà còn sự kết hợp mật thiết với Chúa Cha. Người đã khởi đầu nơi chúng ta một cuộc sống quảng đại và sự liên kết tiến tới sự thân tình trọn vẹn với Thiên Chúa là Cha của Người.

    Nguồn tin:  https://www.tonggiaophanhanoi.org/

    Bài viết liên quan